Ba yếu tố làm nên bài báo quốc tế
Anh Hoàng Chí Cương, nghiên cứu sinh tại Đại học Waseda Nhật Bản trong bài viết gửi VnExpress chia sẻ cách hiểu về một bài báo khoa học và tạp chí thẩm định quốc tế, cùng phương pháp để các nhà khoa học có thể viết và đăng bài báo trên tạp chí quốc tế:
Trước hết, ta hãy xem thế nào là một bài báo khoa học? Thế nào là một tạp chí có thẩm định quốc tế? Có thể hiểu nôm ba, bài báo khoa học (scientific paper) là bài báo có nội dung khoa học được đăng tải trên một tạp chí khoa học đã qua hệ thống thẩm định (peer - reviewed/refereed) của tạp chí. Tạp chí khoa học có hệ thống thẩm định bài trước khi đăng được gọi là tạp chí thẩm định (peer - reviewed/refereed journal).
Tạp chí thẩm định có ban biên tập gồm các thành viên từ nhiều nước khác nhau trên thế giới được xem như tạp chí thẩm định quốc tế (international peer - reviewed/refereed journal). Các tạp chí này tất nhiên có mã số Chuẩn quốc tế cho xuất bản phẩm nhiều kỳ (ISSN – International Standard Serial Number). Gần đây, một số tạp chí dùng cả hai hình thức xuất bản phẩm là “in” (print) hoặc “điện tử” (electronic publication) xem trực tuyến trên website.
Thông thường một bài báo khoa học có cấu trúc như sau:
1. Tiêu đề bài báo (Title): Chỉ tên bài báo, số lượng từ trong tiêu đề bài báo tùy theo quy định từng tạp chí, thông thường từ 10-18 từ phản ánh nội dung đề cập trong bài báo. Dưới tiêu đề bài báo thường là tên tác giả, tập thể tác giả, email, cơ quan công tác, ngày nhận bài báo và ngày chấp nhận đăng bài báo.
2. Tóm tắt (Abstract): Số lượng từ phần này tùy theo quy định của từng tạp chí, thông thường là 100-250 từ. Tóm tắt bài báo thường phải thể hiện vấn đề/mục tiêu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, thời gian, số liệu dùng cho nghiên cứu, kết quả tác giả mới tìm ra, và kết luận. Tất cả được trình bày hết sức ngắn gọn, cô đọng. Dưới tóm tắt là từ khóa (Key words) gồm 3 - 5 từ quan trọng có tần suất lặp lại nhiều.
3. Giới thiệu (Introduction): Đây là phần dẫn nhập, phần này thường nói về cơ sở, lý do, tầm quan trọng của vấn đề tác giả muốn nghiên cứu và cấu trúc của bài báo. Quan trọng nhất là tác giả phải nêu rõ câu hỏi nghiên cứu của mình (research question).
4. Lược sử về nghiên cứu trước đây (Literature review): Một số bài báo khoa học gộp mục này với mục giới thiệu (introduction) bên trên, tùy vào ý đồ tác giả, cũng có nhiều trường hợp tách riêng. Phần này tác giả phải nêu những nghiên cứu quan trọng trước đây trên thế giới đã làm liên quan đến vấn đề mình nghiên cứu. Tác giả phải chỉ ra các nghiên cứu trước đã đi tới đâu, đạt kết quả gì? Những gì còn thiếu, chưa hoàn chỉnh, hoặc bị sai lệch? kể cả về mặt lý thuyết (theoretically) và thực nghiệm (empirically), từ đó tìm cách bổ sung, hoàn chỉnh, điều chỉnh thể hiện sự đóng góp mới của tác giả cho sự phát triển khoa học.
Nếu nghiên cứu của tác giả đề cập đến một vấn đề lý thuyết hoặc thực nghiệm hoàn toàn mới chưa ai nghiên cứu thì phần này chỉ cần nói đến vấn đề riêng tác giả cũng có thể gộp vào phần giới thiệu. Trong thực tế, có rất ít các nghiên cứu như vậy, phần lớn được phát triển từ các nghiên cứu trước đó.
5. Phương pháp và số liệu dùng cho nghiên cứu (Methodologies and Data): Phần này đề cập nghiên cứu sử dụng phương pháp gì. Chẳng hạn như phân tích định tính (qualitative analysis), phân tích định lượng (quantitative analysis), mô tả (descriptive), thực nghiệm (empirical study)... tùy từng công trình, mục tiêu, lĩnh vực nghiên cứu để chọn cho phù hợp và số liệu/dữ liệu nào. Đây là công cụ giúp tác giả trả lời câu hỏi nghiên cứu của bản thân đưa ra.
6. Kết quả và thảo luận (Results and Discussion): Phần này tác giả chỉ ra, giải thích và thảo luận về các kết quả mình mới tìm thấy mà nghiên cứu trước chưa tìm ra hoặc phản bác lại kết quả của các nghiên cứu trước, hoặc bổ sung thêm để hoàn thiện về lý thuyết hoặc thực nghiệm cho các nghiên cứu trước đây đã đề cập ở mục lược sử (Literature review). Nói cách khác, đây chính là câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu ở mục Giới thiệu - Introduction.
7. Kết luận (Conclusion): Phần kết luận tổng lược kết quả nghiên cứu, nêu bật ý nghĩa khoa học của kết quả nghiên cứu, ứng dụng của chúng vào thực tế cuộc sống, hoặc giúp cho việc hoạch định chính sách ra sao (đóng góp (contribution) của nghiên cứu), ưu nhược điểm của nghiên cứu như thế nào, và những định hướng cho các nghiên cứu liên quan trong tương lai.
8. Tài liệu tham khảo (References): Mục này gồm các tài liệu có trích dẫn hoặc là cơ sở quan trọng cho việc phân tích logic của nghiên cứu đề cập trong bài báo. Xin lưu ý, phần này cần trình bày theo tiêu chuẩn các tạp chí đưa ra. Trên thế giới thậm chí xuất hiện các trường phái khác nhau về tiêu chuẩn cho việc viết mục tài liệu tham khảo như trường phái Đại học Chicago, Mỹ.
9. Lời cám ơn (Acknowledgements) nếu có: Là lời cám ơn tới các cơ quan, tổ chức tài trợ, các cá nhân có đóng góp, giúp đỡ cho việc viết và hoàn thiện bài báo.
Trên đây là cấu trúc (structure) của một bài báo khoa học thông thường, trong thực tế có thể có thay đổi chút ít. Khi nộp (submit) bản thảo bài báo (manuscript) của mình cho tạp chí nào tác giả cũng hết sức lưu ý về các yêu cầu trình bày một bài báo khoa học tạp chí đó cả về cấu trúc lẫn định dạng (format), kẻo bị từ chối.
Vậy làm thế nào để viết và đăng được?
Câu trả lời dưới đây cũng sẽ làm sáng tỏ tại sao các nhà nghiên cứu trong nước ít khi viết và đăng bài báo khoa học trên tạp chí thẩm định chuẩn mực quốc tế.
Ta biết rằng, đề tài nghiên cứu đôi khi xuất phát từ các ý tưởng, kinh nghiệm, hoặc sự trải nghiệm thực tế, cũng có thể từ việc quan sát các hiện tượng tự nhiên quanh ta, hay từ một đòi hỏi trong thực tiễn, gợi mở từ các nghiên cứu trước đây... Khi có ý tưởng, nảy sinh câu hỏi nghiên cứu trong đầu, người viết bắt đầu công việc thu thập số liệu, dữ liệu, định hình phương pháp, sắp xếp thời gian, cuối cùng là thực hiện hoạt động, công việc nghiên cứu.
Người làm nghiên cứu trải qua quá trình tư duy, sáng tạo, tìm tòi, tính toán, thực nghiệm, thí nghiệm, thử nghiệm, so sánh, tổng hợp, miêu tả, diễn giải, lập luận và kết luận (tìm ra câu trả lời) rồi đi tới trình bày, công bố kết quả nghiên cứu (Tất nhiên là các lĩnh vực khoa học và đề tài khác nhau sẽ có quy trình khác nhau, trên đây chỉ là quy trình chung nhất, và cũng không hẳn là chuẩn nhất).
Tuy nhiên, để tránh lặp, ta phải tìm xem trên thế giới đã làm nghiên cứu đó hay chưa hoặc họ đã làm đến đâu? Muốn vậy nhà khoa học phải cập nhật thông tin về các nghiên cứu liên quan tới vấn đề mình muốn làm bằng cách đọc/xem các công trình đã công bố trước đây trên các tạp chí, sách, ấn phẩm...
Muốn viết được phần 4 - Lược sử (Literature review) của bài báo khoa học, cần tìm đọc rất nhiều các nghiên cứu trước đó để tránh trùng lặp, tìm ra khiếm khuyết chưa hoàn thiện, những nghi ngờ về kết quả cần được kiểm tra, bổ sung, giải quyết. Việc này cũng có thể giúp ta nảy sinh một lý thuyết mới hay đề xuất một phương pháp tiếp cận khác hoàn hảo, hiệu quả hơn trong ý tưởng nghiên cứu của mình cũng như có được câu hỏi nghiên cứu (research question) độc đáo, mới.
Phải nói rằng, đây là một trong những phần quan trọng và khó khăn nhất. Vì không mấy khi ta phản bác lại được người khác, và việc tìm một kẽ hở trong nghiên cứu của người khác để phát triển hoàn thiện nó không hề đơn giản, đặc biệt trong giới nghiên cứu tại các nước phát triển đi trước Việt Nam rất xa. Điều này giải thích tại sao chương giới thiệu (introduction chapter) của luận văn tiến sĩ nước ngoài lại quan trọng như vậy, vì nó phản ánh ngay triển vọng đóng góp của luận văn trong nghiên cứu học thuật mà bản chất của Nghiên cứu khoa học là tìm ra cái mới, cái hiệu quả hơn cái cũ nếu không chỉ ra được như vậy chứng tỏ nghiên cứu không có đóng góp gì về mặt khoa học cho kho tàng tri thức nhân loại.
Thông thường các nhà nghiên cứu hay tìm trên các nguồn có uy tín chính là các tạp chí thẩm định (peer – reviewed/refereed journal), tất nhiên là cả sách và các ấn bản khác. Trên mạng có thể tìm từ các trang websites như: Elsevier Science Direct, ProQuest, EBSCO, SCOPUS, Taylor & Francis Journals, Wiley Interscience v.v. Tuy nhiên, phí download một bài báo lên tới vài chục USD.
Ở trong nước, không mấy khi các trường, trung tâm nghiên cứu, viện nghiên cứu mua được bản quyền truy cập, cũng chẳng nhập các tạp chí thẩm định ấn bản dưới dạng in của nước ngoài mấy, nên không thể cập nhật được với thế giới. Điều này khiến giới nghiên cứu thậm chí cả giới thẩm định (reviewer) trong nước rất khó khăn trong việc viết/thẩm định phần Literature review (vô hình chung không biết mình có làm lại của thế giới không, cũng chẳng biết đã có ai làm chưa). Đây là cản trở thứ nhất đối với giới nghiên cứu trong nước.
Về phương pháp, do giới nghiên cứu trong nước không cập nhật với thế giới nên gặp khó khăn trong việc tiếp cận với các phương pháp nghiên cứu tiên tiến của thế giới và thành tựu nghiên cứu của thế giới. Nguyên nhân, một mặt như đề cập phần trên, mặt khác do không đủ trang thiết bị thí nghiệm, hoặc từ trước tới nay chưa hề được học, trải nghiệm, rồi ít khi được tham dự hội thảo quốc tế nên không có cơ hội trao đổi học thuật hoặc liên kết với chuyên gia, giới nghiên cứu nước ngoài. Thiếu và yếu về phương pháp nghiên cứu chính là cản trở thứ hai.
Tiếng Anh
Một điểm lưu ý nữa là muốn đăng được trên các tạp chí thẩm định quốc tế, thông thường người viết phải trình bày bài báo bằng ngôn ngữ thông dùng là tiếng Anh. Đối với giới nghiên cứu trong nước, ngoại trừ những người từng học, tu nghiệp nước ngoài, số không nhỏ còn lại gặp trở ngại về việc trình bày, viết bài báo thông thạo bằng ngôn ngữ thứ hai. Đây chính là cản trở thứ ba, ngoại ngữ chưa thạo.
Như đã biết, muốn đăng được bài báo trên các tạp chí thẩm định quốc tế, bài báo phải trải qua khâu thẩm định khắt khe (peer – reviewed/refereed). Sau khi gửi cho ban biên tập, bài báo sẽ được gửi tới ít nhất hai phản biện kín độc lập, thường là những chuyên gia đầu ngành, giáo sư uy tín trên thế giới. Quá trình phản biện kín này sẽ đánh giá khách quan xem công trình nghiên cứu của tác giả có gì mới và có đóng góp gì không cả về lý thuyết lẫn thực nghiệm trong khoa học. Nếu vượt qua được khâu này, tác giả bài báo sẽ nhận được một thư thông báo chấp nhận đăng kèm kết quả của phản biện.
Tác giả phải điều chỉnh, giải trình, giải thích nếu cần thiết theo yêu cầu của phản biện. Quá trình này mất tới vài tháng thậm chí cả năm đối với các tạp chí có hạng (rank) cao. Nếu bài báo không có đóng góp gì sẽ bị từ chối đăng (reject). Để khả năng được chấp nhận đăng cao, câu hỏi nghiên cứu phải rõ ràng, phương pháp nghiên cứu phù hợp, ưu việt, kết quả nghiên cứu phải mới và khác biệt (originality) mà các nghiên cứu trước còn thiếu, hoặc không tìm ra, hoặc kết luận mới của ta phản bác lại được kết luận của các nghiên cứu trước. Nói cách khác, bài báo phải có đóng góp nhất định về lý thuyết hoặc thực nghiệm cho khoa học.
Điều kiện tài chính
Tóm lại, điều kiện cần thứ nhất, muốn viết và đăng được một bài báo khoa học trên tạp chí thẩm định quốc tế thì người viết phải có tài. Cái tài ở đây muốn đề cập tới là năng lực thực sự của người làm nghiên cứu cả về chuyên môn, phương pháp nghiên cứu, lẫn trình độ ngoại ngữ, và đôi khi cần đến sự hy sinh, lòng say mê, và cả cái tâm của người làm nghiên cứu khoa học.
Điều kiện cần thứ hai ở đây chính là người viết phải có tiền. Rất nhiều tạp chí thẩm định quốc tế có uy tín trên thế giới (có chỉ số impact factor cao) có phí dịch vụ cho việc đăng và thẩm định rất cao. Có tạp chí lên tới ngót nghét 100 USD/ trang. Giả sử bài báo của bạn 20 trang mất gần 2000 USD cho việc đăng một bài báo khoa học. Tiền đăng bài gấp đôi cả thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam một năm. Vậy nên, muốn giảm chi phí cho việc đăng, các nhà nghiên cứu thường viết rất súc tích và cô đọng, trên dưới 10 trang đối với các tạp chí có phí cao, còn đối với tạp chí phí thấp hơn có thể cân đối viết dài hơn một chút. Ngoại trừ các nghiên cứu được tài trợ thì với mức thu nhập của người làm nghiên cứu trong nước hiện nay rất khó khăn đăng bài viết cho dù họ có cả chuyên môn, ngoại ngữ và phương pháp nghiên cứu tốt. Đây là cản trở thứ tư, tài chính hạn hẹp.
Điều kiện đủ thứ ba ở đây chính là chính sách cho người làm nghiên cứu. Chính sách ở đây chính là các cơ chế và đãi ngộ để có được một môi trường tốt cho những người làm nghiên cứu phát huy hết khả năng và nhận được những thù lao chính đáng với công sức mình bỏ ra hay chí ít được đánh giá và công nhận một cách công bằng và sống được nhờ nghiên cứu. Muốn làm được thì những người làm quản lý khoa học cần thay đổi về tư duy, việc phân bổ ngân sách cho nghiên cứu phải hợp lý, đúng người, đúng đề tài, tránh lãng phí, dàn trải, và theo kiểu đặt hàng, hợp đồng. Việc đầu tư cho các trang thiết bị, công cụ, dụng cụ, phòng thí nghiệm cũng cần được chú ý vì đây chính là phương tiện hỗ trợ quan trọng cho nghiên cứu. Việc mua bản quyền truy cập các tạp chí thẩm định quốc tế là rất quan trọng giúp giới nghiên cứu có thể tiếp cận được với thông tin khoa học, phương pháp nghiên cứu hiện đại của nhân loại. Chính sách hỗ trợ và việc chủ động tham gia các hội thảo quốc tế để giới nghiên cứu trong nước có cơ hội tiếp cận, trao đổi kinh nghiệm và học thuật cũng quan trọng không kém.
Lời kết cho bài viết là ba yếu tố cơ bản có thể giúp người nghiên cứu có thể viết và đăng được bài báo khoa học trên tạp chí thẩm định quốc tế là tài, tiền và cơ chế hỗ trợ hợp lý. Những yếu tố chính cản trở giới nghiên cứu trong nước là thiếu cập nhật thông tin, phương pháp nghiên cứu khoa học của thế giới; yếu về ngoại ngữ; tài chính hạn chế; và môi trường, trang thiết bị cho nghiên cứu chưa lành mạnh và đầy đủ để có thể khuyến khích được những người có khả năng và tâm huyết toàn tâm toàn ý cho nghiên cứu khoa học.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam ngày 09.5.2018 (dẫn lại từ báo VnExpress.net).
Bài liên quan
- Thực trạng và giải pháp tạo nguồn thu cho báo mạng điện tử ở Việt Nam
- Một số giải pháp tăng cường quản lý thông điệp về nguồn nhân lực chất lượng cao trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức sản xuất các chương trình thiện nguyện của kênh VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam
- Quản lý thông điệp về quy hoạch đô thị trên Báo Xây dựng hiện nay
- Vai trò của báo chí trong truyền thông chính sách về đa dạng văn hóa
Xem nhiều
-
1
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế của Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên hiện nay
-
2
Phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Tây Ninh trong tham gia xây dựng Đảng
-
3
Xây dựng chính quyền điện tử tại Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ hướng tới chính quyền số năm 2030: cơ hội và thách thức
-
4
Tương lai cho thế hệ vươn mình
-
5
THÔNG BÁO VỀ VIỆC XUẤT BẢN TẠP CHÍ CHUYÊN ĐỀ TỪ NĂM 2025
-
6
Chi bộ Văn phòng Đảng – Hội đồng trường – Đoàn thể tổ chức thành công Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025-2027
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị tỉnh Yên Bái trong tình hình mới
Trong toàn bộ sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quan trọng, là giải pháp trọng yếu để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ trong bối cảnh hiện nay. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị tỉnh, trong những năm qua, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường Chính trị tỉnh Yên Bái luôn chú trọng công tác này và đây chính là nhiệm vụ trọng tâm của Nhà trường, với mục tiêu là đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ của Tỉnh có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn trong tình hình mới, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Thực trạng và giải pháp tạo nguồn thu cho báo mạng điện tử ở Việt Nam
Thực trạng và giải pháp tạo nguồn thu cho báo mạng điện tử ở Việt Nam
Trong bối cảnh hiện nay, báo chí Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ để hòa nhịp cùng mạch đập phát triển sôi động của thời đại. Ngày nay, loại hình báo in dần lui về phía sau để nhường lại “không gian tương tác” cho loại hình báo mạng điện tử bởi những thế mạnh mà báo in truyền thống không có...Với thế mạnh nổi trội của mình, báo mạng điện tử không chỉ là nguồn cung cấp thông tin “nhanh, hot, cập nhật không ngừng”, mà còn hứa hẹn là một cánh đồng rộng lớn cho mục tiêu gia tăng giá trị về mặt kinh tế. Việc phát triển các nguồn thu bền vững có thể nói là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển lâu dài của các cơ quan báo chí nói chung và các cơ quan báo mạng điện tử nói riêng.
Một số giải pháp tăng cường quản lý thông điệp về nguồn nhân lực chất lượng cao trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Một số giải pháp tăng cường quản lý thông điệp về nguồn nhân lực chất lượng cao trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Trong thời đại số, báo mạng điện tử đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải thông tin về nguồn nhân lực chất lượng cao – yếu tố then chốt quyết định sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Những bài viết trên các nền tảng báo chí trực tuyến không chỉ phản ánh thực trạng cung - cầu lao động mà còn góp phần định hướng, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, nhà tuyển dụng và người lao động về tầm quan trọng của nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, việc quản lý thông tin trên báo mạng điện tử hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều thách thức về tính hấp dẫn, tính định hướng và khả năng lan tỏa của thông điệp. Vì vậy, việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thông điệp về nguồn nhân lực chất lượng cao là yêu cầu cấp thiết, cần được cơ quan báo chí quan tâm.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức sản xuất các chương trình thiện nguyện của kênh VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức sản xuất các chương trình thiện nguyện của kênh VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam
Các chương trình thiện nguyện trên sóng truyền hình không chỉ là cầu nối giữa những tấm lòng nhân ái và những hoàn cảnh khó khăn mà còn thể hiện trách nhiệm xã hội của các cơ quan báo chí, truyền thông. Là kênh thời sự - chính luận chủ lực của Đài Truyền hình Việt Nam, VTV1 đã và đang thực hiện nhiều chương trình thiện nguyện có sức lan tỏa mạnh mẽ, góp phần kêu gọi sự chung tay của cộng đồng trong các hoạt động hỗ trợ người yếu thế. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả tổ chức sản xuất, các chương trình này cần được đầu tư hơn về nội dung, phương thức triển khai cũng như cách thức kết nối với khán giả. Bài viết này sẽ phân tích thực trạng tổ chức sản xuất các chương trình thiện nguyện của VTV1, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả lan tỏa, góp phần phát huy tốt hơn nữa vai trò của truyền hình trong công tác thiện nguyện.
Quản lý thông điệp về quy hoạch đô thị trên Báo Xây dựng hiện nay
Quản lý thông điệp về quy hoạch đô thị trên Báo Xây dựng hiện nay
Trong bối cảnh đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ tại Việt Nam, việc quản lý và truyền tải thông điệp về quy hoạch đô thị hiệu quả đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng, tạo sự đồng thuận xã hội và thúc đẩy sự phát triển đô thị bền vững. Báo Xây dựng - cơ quan ngôn luận của Bộ Xây dựng, có trách nhiệm và sứ mệnh tiên phong trong việc thông tin, tuyên truyền, định hướng dư luận về các vấn đề quy hoạch đô thị. Bài viết tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng quản lý thông điệp về “quy hoạch đô thị trên Báo Xây dựng hiện nay”, từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này, góp phần vào sự nghiệp phát triển đô thị Việt Nam.
Bình luận