Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1. Nguồn gốc lý luận, khái niệm và bản chất của lực lượng sản xuất chất lượng mới
Trong bộ “Tư bản”, Mác định nghĩa lực lượng sản xuất là “năng lực cải tạo tự nhiên và giành lấy tư liệu vật chất của con người”(1), với ba yếu tố cốt lõi là: lực lượng lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Lý thuyết này nhấn mạnh rằng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên động lực căn bản cho sự phát triển của xã hội. Khi lực lượng sản xuất phá vỡ sự kìm hãm của quan hệ sản xuất lỗi thời, nó sẽ dẫn đến sự thay thế của hình thái xã hội mới. Trong thời kỳ Cách mạng Công nghiệp, những cải tiến về công cụ sản xuất như máy hơi nước đã thúc đẩy sự bứt phá của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong tác phẩm “Bần cùng triết học”, Mác cũng chỉ rõ rằng: “Cái cối xay quay bằng tay đưa lại cho xã hội phong kiến, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại cho xã hội có nhà tư bản công nghiệp”(2), xã hội tư bản chủ nghĩa thay thế xã hội phong kiến bản chất là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ đã đóng vai trò rất quan trọng trong tiến trính thúc đẩy phát triển xã hội.
Lực lượng sản xuất chất lượng mới là một khái niệm được hình thành và phát triển dựa trên lý luận lực lượng sản xuất của chủ nghĩa Mác, nó là một năng lượng sản xuất mới được hình thành trong quá trình hoạt động kinh tế hòa hợp sâu sắc các thành quả khóa học mới với đại hiện là kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo và kỹ thuật xanh v.v., nó được thúc đẩy bằng yếu tố mới là đổi mới sáng tạo, tài nguyên dữ liệu và nhân tài chất lượng cao, phượn thức sản xuất đã thay đổi từ “ thúc đẩy bằng nhân lực” sang “ hợp tác thông minh”. Thực tế, lực lượng sản xuất có thể nâng cao năng xuất lao động, thúc đẩy tố ưu hóa các nguồn lực, đẩy nhanh nâng cấp kết cấu ngành nghề, là một động lực quan trọng để thúc đẩy phát triển chất lượng cao.
Sự hình thành lực lượng sản chất lượng mới xuất phát từ sáng tạo khoa học công nghệ, đó là quá trình thúc đẩy sự nhảy vọt về chất trong phát triển lực lượng sản xuất. Nhìn lại lịch sử, mỗi khi các đột phá công nghệ mang tính cách mạng thúc đẩy chuyển đổi ngành công nghiệp, lực lượng sản xuất sẽ có bước phát triển nhảy vọt mang tính đột biến, hình thành trạng thái chất lượng mới(3). Hiện nay, làn sóng cách mạng công nghiệp và đổi mới công nghệ mới đang tái định hình bản đồ đổi mới sáng tạo toàn cầu, kiến tạo lại cơ cấu kinh tế thế giới. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình chỉ rõ: “Cần tổng hợp các nguồn lực đổi mới công nghệ, dẫn dắt phát triển các ngành công nghiệp chiến lược mới và ngành nghề công nghiệp tương lai, đẩy nhanh hình thành lực lượng sản xuất chất lượng mới”(4). Xét về bản chất, lực lượng sản xuất chất lượng mới thể hiện ở việc thoát ly khỏi sự phụ thuộc vào các yếu tố truyền thống như đất đai, lao động, vốn, chuyển sang dựa vào hệ thống công nghệ hiện đại như kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo, năng lượng xanh, lấy nâng cao năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) làm cốt lõi, thông qua tái cấu trúc quan hệ sản xuất và tối ưu hóa phân bổ nguồn lực xã hội để xây dựng mô hình lực lượng sản xuất sáng tạo hướng tới tương lai. Về bản chất, đây là hệ thống sản xuất mới tích hợp chặt chẽ giữa đổi mới công nghệ, đổi mới thể chế, đổi mới tổ chức và nguồn nhân lực chất lượng cao, mang những đặc trưng nổi bật: hiệu suất cao, chất lượng cao và bền vững. lực lượng sản xuất chất lượng mới không chỉ là sự đổi mới động lực tăng trưởng kinh tế, mà còn đánh dấu sự chuyển đổi hệ thống trong mô hình quản trị quốc gia và phương thức phát triển, trở thành nền tảng chiến lược để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa hiện đại.
2. Thực trạng phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam
Kể từ khi thực hiện chính sách “Đổi mới” năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã duy trì tăng trưởng liên tục trong hơn ba thập kỷ, quy mô nền kinh tế không ngừng mở rộng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, hệ thống quản trị quốc gia ngày càng hoàn thiện. Những thành tựu này đặt nền móng cho Việt Nam tiếp tục khám phá mô hình “lực lượng sản xuất chất lượng mới” định hướng đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và phát triển xanh.
Đổi mới công nghệ: Xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia
Việt Nam đang từng bước hình thành hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Chính phủ đã thành lập nhiều khu công nghệ cao mới, trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cấp quốc gia, đồng thời ban hành các chính sách hỗ trợ nghiên cứu phát triển, đăng ký sáng chế và thương mại hóa công nghệ. Đặc biệt, trong “Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia”(5), các công nghệ số như trí tuệ nhân tạo, Big Data, Internet vạn vật được xác định là điểm then chốt để nâng cấp cơ cấu kinh tế. Điều này cho thấy Việt Nam không còn chỉ dựa vào lợi thế lao động, mà đang chủ động định hướng phát triển lực lượng sản xuất tương lai.
Hạ tầng số và kinh tế số: Động lực tăng trưởng mới
Đến năm 2023, tỷ lệ phủ sóng Internet di động tại Việt Nam đã vượt 90%(6), thanh toán không tiền mặt và dịch vụ công điện tử được triển khai mạnh mẽ tại các đô thị lớn. Các lĩnh vực mới như thương mại điện tử, dịch vụ nền tảng số, công nghệ tài chính phát triển sôi động, tạo động lực chuyển đổi cho ngành truyền thống và xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp. Điều này đã nói lên quá trình “chuyển dịch cơ cấu yếu tố sản xuất”, một đặc trưng của lực lượng sản xuất chất lượng mới đã bắt đầu hình thành.
Phát triển xanh: Chiến lược quốc gia hướng tới bền vững
Trước áp lực thực hiện cam kết giảm phát thải carbon và yêu cầu quản trị môi trường toàn cầu, Việt Nam đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió và điện mặt trời, với nhiều cơ sở quy mô lớn được xây dựng tại các tỉnh thành. Việc áp dụng công nghệ xanh và sản xuất sạch giúp nâng cao hiệu suất năng lượng và giảm phát thải trong ngành chế tạo, thể hiện khả năng thích ứng của lực lượng sản xuất mới chất trong điều kiện ràng buộc về môi trường.
Hoàn thiện thể chế và hợp tác quốc tế
Ngoài ra, Việt Nam cũng không ngừng cải cách hệ thống quản trị, pháp luật và mở rộng hợp tác quốc tế, tạo dựng môi trường thể chế ổn định. Đổi mới thể chế và nâng cao chất lượng dịch vụ công giúp tăng hiệu quả thực thi chính sách và mức độ thị trường hóa, từ đó hỗ trợ cho yêu cầu hiệu suất cao và tính thích ứng linh hoạt của lực lượng sản xuất chất lượng mới.
Mặc dù Việt Nam vẫn là một quốc gia đang phát triển, nhưng những nỗ lực trong lĩnh vực công nghệ, số hóa, phát triển xanh và cải cách thể chế đã phần nào thể hiện đặc điểm của lực lượng sản xuất mới chất. Trong tương lai, nếu tiếp tục tăng cường năng lực đổi mới nội sinh, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo nhân lực, và tối ưu hóa cơ chế phân bổ nguồn lực, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng thành công hệ thống sản xuất hiện đại phù hợp với điều kiện quốc gia, thực hiện bước nhảy vọt từ “tăng trưởng theo chiều rộng” sang “phát triển chất lượng cao”.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới phải đối mặt với một số các thách thức như sau:
Thách thức nổi bật đầu tiên là “tăng trưởng ảo” trong năng lực khoa học công nghệ. Dù số lượng trường đại học, doanh nghiệp, khu công nghệ cao tăng lên nhanh chóng, nhưng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển còn hạn chế, tỷ lệ thương mại hóa kết quả nghiên cứu thấp, và tình trạng doanh nghiệp phụ thuộc công nghệ bên ngoài vẫn nhiều. Trong thời đại mà khoa học công nghệ trở thành trụ cột cạnh tranh quốc gia, hệ thống đổi mới sáng tạo hiện tại của Việt Nam chưa đủ mạnh để nâng đỡ quá trình tái cơ cấu toàn diện.
Tiếp theo, thiếu hụt trong phát triển kinh tế số ngày càng bộc lộ rõ. Mặc dù chính phủ đã triển khai dịch vụ công điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt và thương mại điện tử và giành được thành quả mới, nhưng sự thiếu thống nhất chiến lược khiến hệ sinh thái số bị phân mảnh. Sự phân hóa giữa thành thị và nông thôn, dự liệu cô lập vẫn tồn tại rộng rãi, đặt biệt là tỷ lệ tham gia vào công trình số hóa của doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn thấp, chênh lệch về kỹ thuật số đang cấu trúc lại bắt bình đẳng xã hội.
Việt Nam vẫn chưa thể thoát khỏi “kinh tế lắp ráp gia công”. Phần lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung vào các khâu giá trị thấp, trong khi khâu nghiên cứu, thiết kế và thương hiệu vẫn do doanh nghiệp nước ngoài kiểm soát. Tình hình này đã trực tiếp kìm hãm nâng cấp nền kinh tế, và cũng hạn chế năng lực kiểm soát tự chủ trong lực lượng sản xuất chất lượng mới.
Đáng chú ý hơn là mâu thuẫn giữa phát triển xanh và lợi ích thực tế ngày càng gay gắt. Sau khi cam kết quốc tế về đạt đỉnh phát thải và trung hòa carbon, Việt Nam tuy đẩy nhanh triển khai năng lượng tái tạo nhưng lại thiếu hệ thống dự trữ năng lượng, mạng lưới điện quá tải và hệ thống tài chính xanh yếu kém, khiến nhiều dự án khó triển khai. Một số doanh nghiệp chỉ làm "tô điểm xanh", biến công tác bảo vệ môi trường thành hình thức, quá trình chuyển đổi xanh vẫn chưa thực sự ăn sâu vào logic phát triển.
Sự trì trệ về thể chế và quản trị cũng đang trở thành rào cản sâu xa. Hiện nay, hiệu suất hành chính, tính minh bạch chính sách và năng lực giám sát thị trường vẫn còn khoảng cách lớn so với yêu cầu về “hệ thống quản trị hiệu năng cao”mà lực lượng sản xuất mới đòi hỏi. Môi trường kinh doanh thiếu sức hấp dẫn trong cạnh tranh khu vực, trong khi “tính ì thể chế”ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả truyền tải chính sách, dẫn đến khó khăn“cải cách ở tầng trên, cản trở ở cơ sở”.
Việt Nam hiện không thiếu động lực tăng trưởng, mà đang cấp thiết cần xây dựng hệ thống cải cách đột phá khỏi tình trạng phụ thuộc. Dưới góc nhìn lực lượng sản xuất mới chất, thách thức không phải là "có phát triển hay không", mà là "liệu có đủ năng lực tự chủ chuyển đổi". Đây chính là vấn đề cốt lõi mà Việt Nam buộc phải đối mặt trên hành trình hướng tới phát triển chất lượng cao.
3. Một số đề xuất nhằm phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới trong giai đoạn phát triển mới của Việt Nam
Không thể phủ nhận, Việt Nam đang đứng trước một bước ngoặt phát triển quan trọng là không chỉ cần “tăng trưởng” mà cấp thiết hơn là cần “tăng trưởng chất lượng cao”, một mô hình tăng trưởng mang tính tự chủ và bền vững. Trong bối cảnh này, việc xây dựng lực lượng sản xuất chất lượng mới không nên chỉ được hiểu là nâng cấp công nghệ hay số hóa, mà phải là quá trình tái cấu trúc toàn diện từ tư duy phát triển, khung chính sách đến năng lực thực thi và cơ chế phối hợp.
Thứ nhất là, nâng cấp đầu tư cho đổi mới công nghệ từ “chi phí phụ trợ của phát triển”thành trụ cột chiến lược dài hạn của quốc gia. Việc thiết lập cơ chế đầu tư nghiên cứu ổn định và trao quyền thực chất cho các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp là bước then chốt để kích hoạt năng lực đổi mới nội sinh, tạo động lực nội tại cho chuyển đổi kinh tế.
Thứ hai là, cần xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng thể chế tương thích với mô hình sản xuất mới, biến dữ liệu, năng lượng sạch và nguồn nhân lực chất lượng cao thực sự trở thành tài nguyên chiến lược quốc gia. Cải cách hành chính phải đi đôi với quản trị số, quy hoạch năng lượng cần kết hợp cơ chế thị trường và khác biệt vùng miền, trong khi hệ thống giáo dục-đào tạo phải trở thành nền tảng tri thức mở hướng tới tương lai, tăng cường đào tạo kỹ năng và năng lực thích ứng.
Thứ ba là, chiến lược phát triển vùng cần chuyển đổi sang mô hình quản trị không gian mô hình "đi đôi với lực lượng sản xuất". Thông qua xác định vị trí vùng miền một cách khoa học, Việt Nam cần trao cho mỗi khu vực vai trò chiến lược đặc thù trong chuỗi giá trị quốc gia, thoát khỏi vòng luẩn quẩn "trợ cấp ngắn hạn - phụ thuộc dài hạn", để thực sự hình thành hệ sinh thái kinh tế vùng bổ trợ, đồng bộ và hiệu quả.
Thứ tư là, cần hoàn thành chuyển đổi hệ thống trong tư duy phát triển: từ “phụ thuộc động lực bên ngoài” sang "làm chủ yếu tố nội sinh". Điều này không chỉ nâng cao năng lực sàng lọc chất lượng đầu tư nước ngoài, mà quan trọng hơn là thông qua sàng lọc công nghệ, sở hữu trí tuệ, xây dựng tiêu chuẩn và phát triển thương hiệu, nâng tổng thể vị thế chi phối và tiếng nói của doanh nghiệp nội địa trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Kết luận
Hành trình tiến tới lực lượng sản xuất chất lượng mới không chỉ là quá trình nâng cấp công nghệ, mà còn là quá trình tái tạo mô hình phát triển quốc gia. Với nền tảng chính trị ổn định, cơ cấu dân số trẻ và khát vọng hiện đại hóa mạnh mẽ, Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng thực hiện bước nhảy vọt “lượng” sang “chất” trong tương lai. Mấu chốt nằm ở khả năng kết nối thông suốt tầm nhìn chiến lược, thiết kế thể chế và hành động thực thi, xây dựng được một hệ thống phát triển hiện đại không chỉ tăng trưởng mà còn tự cường, bền vững và có thể nhân rộng./.
__________________________________
(1) C.Mác (2018), Tư bản[M], Nxb. Chính trị quốc gia sự thật.
(2) C. Mác (1962), Sự khốn cùng của triết học[M], Nxb. Sự thật.
(3) Tôn Chu Phong (2025), Khoa học là cán cân mạnh mẽ của lịch sử(孙珠峰:科学是“历史的有力的杠杆”)[J]:Tạp chí Nhật báo Quang Minh.
(4) Tập Cận Bình (2024), Phát biểu tại buổi học tập tập thể lân thứ XI của Bộ Chính trị trung ương khóa XX (习近平在二十届中央政治局第十一次集体学习时的讲话 ).
(5) Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”
(6) Báo điện tử Chính phủ (2017), Mạng 4G đã phủ sóng khoảng 95% dân số Việt Nam.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
- Nhận thức đúng về giá trị dân chủ trong điều kiện đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam
- Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Xem nhiều
-
1
[Video] Mạch Nguồn số 76: Những âm vang của niềm tin và lý tưởng
-
2
[Video] Mạch Nguồn số 74: Người lính thời bình giữ vững trận địa tư tưởng
-
3
[Video] Mạch Nguồn số 75: Đỏ niềm tin - Xanh ước mơ
-
4
[video] Mạch Nguồn số 72: Học Bác - Hiểu Bác
-
5
[Video] Mạch Nguồn số 73: HƯỚNG TỚI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN LẦN THỨ XII
-
6
Một số giải pháp xử lý thông tin giả, sai lệch, xuyên tạc tác động đến dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Vai trò của cấp ủy cơ sở tại tỉnh Điện Biên trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025: thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng
Việc phát huy vai trò lãnh đạo của cấp ủy cơ sở, đặc biệt ở cấp xã, được xác định là nhân tố quyết định hiệu quả nhằm thực hiện Quyết định số 90/QĐ-TTg về phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia số giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025. Bài viết phân tích thực trạng tại tỉnh Điện Biên - một địa phương miền núi biên giới có nhiều khó khăn nhưng cũng đạt được kết quả đáng ghi nhận. Từ đó làm rõ các yếu tố ảnh hưởng, chỉ ra thuận lợi và thách thức trong bối cảnh thực thi Luật số 72/2025/QH15 về Tổ chức chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, đồng thời đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả vai trò của cấp ủy cơ sở.
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, với cốt lõi là số hóa, thông minh hóa và thân thiện với môi trường, “Lực lượng sản xuất mới” đang cấu trúc lại lộ trình chuyển đổi kinh tế của các nước. Là một nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á, Việt Nam đã tận dụng lợi thế về lao động, các hiệp định thương mại tự do (như RCEP) và vị trí chiến lược để đẩy nhanh việc tiếp nhận chuyển dịch chuỗi cung ứng, và trở thành trung tâm khu vực trong các lĩnh vực như sản xuất điện tử, dệt may. Trong sự nghiệp Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật về tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và tiến bộ về thể chế. Tuy nhiên sự phát triển của Việt Nam vẫn đối mặt với rất nhiều thách thức như năng lực đổi mới sáng tạo còn yếu, hạ tầng cơ sở lạc hậu... Bài viết này sẽ phân tích quá trình phát triển của Việt Nam dưới góc nhìn “lực lượng sản xuất chất lượng mới”, đồng thời đề xuất hướng phát triển “lực lượng sản xuất mới” để thúc đẩy phát triển, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam.
Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
Bài viết tập trung phân tích khả năng vận dụng nhân sinh quan Phật giáo trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông (THPT). Những giá trị cốt lõi của Phật giáo như tinh thần từ bi, chánh niệm, nhận thức về vô thường và nhân quả có thể trở thành nền tảng quan trọng để hình thành nhân cách, định hướng lối sống lành mạnh và xây dựng môi trường học đường nhân văn. Trên cơ sở đó, bài viết nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục, xã hội và cá nhân của việc tích hợp các giá trị Phật giáo, đồng thời gợi mở những hướng đi cụ thể nhằm đưa đạo đức Phật giáo vào các hoạt động học tập và trải nghiệm. Qua đó, tác giả khẳng định tiềm năng của Phật giáo trong việc góp phần phát triển toàn diện học sinh, không chỉ về tri thức mà còn ở phương diện đạo đức và nhân cách.
Nhận thức đúng về giá trị dân chủ trong điều kiện đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam
Nhận thức đúng về giá trị dân chủ trong điều kiện đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam
Thời gian qua, không chỉ các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị xuyên tạc về chế độ dân chủ ở nước ta khi cho rằng “không có dân chủ trong chế độ đảng cộng sản duy nhất cầm quyền”, một số người trong nước cũng ngộ nhận, mơ hồ về luận điệu sai trái này. Vì vậy, việc làm sáng tỏ bản chất dân chủ không phụ thuộc vào chế độ đa đảng hay một đảng cầm quyền là việc làm cần thiết nhằm phòng ngừa biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị trong nội bộ.
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Chiều 31/10, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo sư, Tiến sỹ Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3).
Bình luận