Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
1. Khái niệm
- Biến đổi khí hậu
Theo kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Việt Nam do Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đưa ra năm 2011, biến đổi khí hậu được hiểu là sự thay đổi khi hậu được quy trực trực tiếp hay gián tiếp là do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu và đóng góp thêm vào sự biến động khí hậu tự nhiên trong các thời gian có thể so sánh được. BĐKH xác định sự khác biệt giữa các giá trị trung bình dài hạn của một tham số thống kê khí hậu trong đó, trung bình được thực hiện trong một khoảng thời gian xác định, thường là vài thập kỷ" (1).
- Thích ứng: Theo Từ điển Tiếng Việt “thích ứng là những thay đổi cho phù hợp với các điều kiện mới, yêu cầu mới, lối làm việc thích ứng với tình hình mới (như thích nghi)” (2).
- Thích ứng với biến đổi khí hậu: Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 (Điều 90) đã đưa ra định nghĩa: “Thích ứng với biến đổi khí hậu là các hoạt động nhằm tăng cường khả năng chống chịu của hệ thống tự nhiên và xã hội, giảm thiểu tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và tận dụng cơ hội do biến đổi khí hậu mang lại” (3).
Từ các khái niệm đã trình bày ở trên, có thể hiểu “Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu trên truyền hình là toàn bộ nội dung liên quan đến vấn đề thích ứng với BĐKH, được thu thập, xử lý và truyền tải đến công chúng thông qua các sản phẩm/tác phẩm truyền hình.”
Nội dung của loại thông tin này tập trung vào việc phản ánh thực trạng, giải pháp thích ứng với BĐKH, được đăng tải trên truyền hình,cụ thể gồm: việc truyền tải các dữ liệu, sự kiện về BĐKH; giới thiệu những mô hình, sáng kiến thích ứng hiệu quả của người dân và chính quyền; phổ biến các chính sách, kế hoạch của Nhà nước trong việc hỗ trợ người dân địa phương ứng phó với biến đổi khí hậu;cảnh báo, dự báo về những thách thức sắp tới mà cộng đồng cần chuẩn bị.
2. Khảo sát thực trạng thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên 03 kênh/đài truyền hình diện khảo sát
2. 1. Tần suất, số lượng
Để đánh giá thực trạng thông tin thích ứng với BĐKH ở ĐBSCL trên truyền hình, tác giả tiến hành khảo sát 1.135 tác phấm, tin/bài, phóng sự về vấn đề này trên kênh VTV Cần Thơ, Đài PT-TH TP Cần Thơ (THTPCT) và Đài PT-TH Cà Mau (CTV), trong thời gian từ tháng 1/2023-12/2024. Cụ thể:
- Kênh VTV Cần Thơ: khảo sát tại chương trình Bản tin thời sự Miền Tây hôm nay; Bản tin nông nghiệp; Ký ức miền Tây và một số phóng sự chuyên đề với 442 tác phẩm, chiếm 38,9% tổng số mẫu khảo sát.
- Kênh THTPCT: khảo sát tại chương trình Tin tức Mekong, Thời sự TP Cần Thơ và một số phóng sự chuyên đề; với 379 tác phẩm, chiếm 33,4%.
- Kênh CTV, khảo sát tại chương trình Bản tin thời sự; Nhìn ra tỉnh bạn, Ký ức miền Tây và một số phóng sự chuyên đề, phim tài liệu… 314 tác phẩm, chiếm 27,7%.
Tỷ lệ số lượng tác phẩm mang thông tin về thích ứng với BĐKH trên 03 kênh truyền hình diện khảo sát như sau:

Từ biểu đồ 2.1. có thể thấy, Kênh VTV Cần Thơ với 441 tác phẩm, chiếm 38,9% tổng số tác phẩm khảo sát là đơn vị có số lượng tác phẩm nhiều nhất trong ba đài khảo sát. Lý do là vì VTV Cần Thơ có phạm vi phủ sóng rộng trên toàn vùng ĐBSCL, là kênh Trung ương đặt tại địa phương, được định hướng tập trung vào các vấn đề phát triển bền vững, nông nghiệp và môi trường vùng ĐBSCL. Các chương trình như Miền Tây hôm nay, Ký ức miền Tây, Bản tin Nông nghiệp, Chuyển động Mekong. Thường xuyên phản ánh các tác động của BĐKH và các mô hình thích ứng hiệu quả. VTV Cần Thơ đóng vai trò dẫn dắt trong truyền thông về thích ứng với BĐKH ở khu vực.
Đài PT-TH TP Cần Thơ với 379 tác phẩm (chiếm 33,4%), tập trung truyền tải thông tin chính sách, hoạt động ứng phó thiên tai và thích ứng BĐKH trên địa bàn thành phố và khu vực lân cận. Các chương trình tiêu biểu: Tin tức Mekong, Thời sự TP Cần Thơ, Chuyên đề môi trường, Nông thôn mới.Đài có lợi thế cập nhật nhanh, phản ánh trực tiếp đời sống người dân trong vùng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi triều cường, hạn hán, xâm nhập mặn. Tuy nhiên, do nguồn lực hạn chế hơn so với kênh Trung ương, nên mức độ đầu tư cho hình ảnh, đồ họa và khai thác chuyên sâu còn tương đối thấp.
Đài PT-TH Cà Mau (CTV) với 315 tác phẩm (chiếm 27,7%). Là đài truyền hình tuyến tỉnh tại khu vực ven biển chịu ảnh hưởng nặng của BĐKH, nhất là sạt lở bờ biển, nước biển dâng, nhiễm mặn, CTV tích cực sản xuất chương trình về thích ứng, như: Nhìn ra tỉnh bạn, Phim tài liệu môi trường, Ký ức miền Tây, các phóng sự về sinh kế ven biển… Tuy nhiên, do điều kiện nguồn nhân lực, trang thiết bị và ngân sách hạn chế, số lượng chương trình tuy có chất lượng cao nhưng còn ít so với nhu cầu thực tế.
2.2. Nội dung thông tin
Tiến hành khảo sát 1.135 tin,bài, phóng sự về thích ứng với BĐKH trên 03 kênh truyền hình diện khảo sát, có thể thấy nội dung thông tin thích ứng với BĐKH tập trung vào các nhóm chính sau đây:

Tỷ lệ cụ thể của từng nhóm nội dung như sau:

Từ Bảng 2.1. và Biểu đồ 2.2. có thể thấy:
Một là, thông tin về giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu chiếm tỷ trọng cao nhất, với 487 tác phẩm, tương ứng 42,9% tổng số tin/bài, phóng sự khảo sát. Các chương trình truyền hình trên ba kênh khảo sát đã khai thác hiệu quả các điển hình ở địa phương như: mô hình canh tác lúa - tôm, nhà nổi vùng trũng, hệ thống tưới tiết kiệm, hồ trữ nước, hay sáng kiến cảnh báo sớm sạt lở và mặn xâm nhập…. Ví dụ, trong phóng sự “Vĩnh Thạnh: Tận dụng lũ về nuôi cá chân ruộng” phát trên chương trình Tin tức Mê Kông của THTPCT vào ngày 20/8/2023 đã giới thiệu mô hình nuôi cá mùa lũ tại huyện Vĩnh Thạnh (cũ). Theo đó, hàng năm, tận dụng lợi thế mùa nước nổi, người nông dân ở huyện đầu nguồn Vĩnh Thuận đã không sản xuất lúa vụ 3 mà tiến hành nuôi cá trên chân ruộng mang lại thu nhập ổn định.
- Hai là, nhóm nội dung phản ánh tác động của biến đổi khí hậu chiếm tỷ lệ 35,1%, với 398 tác phẩm được thống kê. Đây vẫn là một mảng nội dung quan trọng và được 03 kênh truyền hình diện khảo sát chú trọng, đặc biệt trong bối cảnh các hiện tượng khí hậu cực đoan như xâm nhập mặn, hạn hán kéo dài, sạt lở bờ sông và nước biển dâng đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng tại khu vực ĐBSCL. Đơn cử như trong phóng sự “Khát mặn” phát trên VTV Cần Thơ ngày 12/6/2023, phóng viên ghi lại cảnh ruộng đồng tại Sóc Trăng và Trà Vinh nứt nẻ, hệ thống kênh mương trơ đáy, hàng trăm hecta lúa chết khô do không thể bơm tưới trong đợt hạn, mặn khốc liệt kéo dài.
Ba là, nhóm thông tin về chủ trương, chính sách của Nhà nước chiếm tỷ lệ thấp nhất, với 250 tác phẩm, tương đương 22,0%. Trong đó, VTV Cần Thơ đã dành nhiều phóng sự chuyên sâu để giới thiệu và phân tích việc triển khai Nghị quyết 120/NQ-CP năm 2017 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH. Phóng sự “5 năm Nghị quyết 120: ĐBSCL chuyển mình” phát tháng 10/2023 đã phản ánh khá toàn diện các kết quả đạt được như chuyển đổi mô hình kinh tế - sinh thái, cải tạo hạ tầng giao thông - thủy lợi và nâng cao năng lực quản trị nước.
2.3. Hình thức thông tin
2.3.1 Thể loại báo chí
Trong giai đoạn khảo sát, các kênh/đài đã sử dụng đa dạng các thể loại để truyền tải thông tin thích ứng BĐKH, gồm: tin tức, phóng sự, tọa đàm, phim tài liệu - ký sự, phỏng vấn… Mỗi thể loại có ưu điểm riêng và được kết hợp nhằm tăng hiệu quả truyền thông tổng thể.

Từ bảng 2.2. có thể thấy: (1) Tin tức chiếm tỷ lệ lớn nhất (hơn 42%), phản ánh đặc thù của truyền hình là cập nhật nhanh chóng, kịp thời tình hình thiên tai, xâm nhập mặn, hạn hán…(2) Phóng sự đứng thứ hai (~32%), vẫn giữ vai trò quan trọng để khắc họa chiều sâu và câu chuyện thực tiễn thích ứng ở địa phương. (3) Tọa đàm, phim tài liệu - ký sự và phỏng vấn chiếm tỷ trọng thấp hơn (tổng cộng khoảng 25%), song lại là mảng nội dung cần thiết để tạo tính phản biện, phân tích và nâng cao uy tín chương trình.
2.3.2. Về ngôn ngữ thể hiện
- Hình ảnh: Trong các chương trình truyền hình về thích ứng với BĐKH ở ĐBSCL, phóng viên kết hợp hình ảnh tác động tiêu cực (sạt lở, hạn hán, ngập mặn…) với hình ảnh tích cực (trồng rừng, nhà nổi, mô hình lúa – tôm, tưới tiết kiệm…) nhằm tạo hiệu ứng truyền thông toàn diện. Cách thể hiện sinh động này vừa phản ánh thực trạng, vừa khơi gợi cảm xúc, củng cố niềm tin và thúc đẩy hành động, trở thành cầu nối giữa tri thức khoa học, chính sách và đời sống người dân trong quá trình thích ứng với BĐKH.
- Âm thanh: Khảo sát cho thấy các chương trình truyền hình về thích ứng với BĐKH ở ĐBSCL khai thác đa dạng yếu tố âm thanh gồm lời nói, tiếng động và âm nhạc để tăng sức thuyết phục. Lời bình, lời dẫn và phát biểu nhân vật được thể hiện ngắn gọn, dễ hiểu, kết hợp ý kiến chuyên gia và người dân để tăng tính chân thực. Tiếng động hiện trường như gió, mưa, sạt lở… giúp khán giả cảm nhận rõ thực tế, trong khi nhạc nền được lựa chọn phù hợp với từng nội dung, trầm buồn khi phản ánh thiệt hại, tươi sáng khi nêu giải pháp, đôi khi lồng ghép nhạc dân tộc để tạo bản sắc. Sự phối hợp hài hòa giữa âm thanh và ngôn ngữ hình ảnh đã giúp thông điệp truyền thông vừa giàu tri thức, vừa giàu cảm xúc.
2.4. Đánh giá chung
2.4.1. Kết quả đạt được
Qua khảo sát tại 03 kênh truyền hình là VTV Cần Thơ, THTPCT và CTV cho thấy, công tác thông tin, tuyên truyền về thích ứng BĐKH ở ĐBSCL trên truyền hình giai đoạn 2023-2024 đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận:
Một là, nội dung và hình thức thông tin về thích ứng với BĐKH ở ĐBSCL trên 03 kênh/đài truyền hình diện khảo sát đã có nhiều sự cái tiến so với trước đây.
Nội dung ngày càng gắn với thực tiễn sản xuất và đời sống người dân, phản ánh cụ thể tác động của BĐKH, giới thiệu mô hình “thuận thiên”, sáng kiến cộng đồng và phổ biến chủ trương, chính sách của Nhà nước. Cách lồng ghép linh hoạt giữa cảnh báo rủi ro và hướng dẫn giải pháp giúp khán giả có cái nhìn toàn diện và chủ động ứng phó. Về hình thức, các đài đã khai thác hiệu quả thế mạnh của truyền hình trong việc kết hợp hình ảnh, âm thanh, lời bình, đồ họa và chữ chạy. Đáng chú ý, các phóng sự có chuyên gia quốc tế đều được biên dịch, gắn phụ đề chuẩn xác, thể hiện tính chuyên nghiệp và nâng cao tính thuyết phục. Việc sử dụng văn bản trên màn hình đúng thời điểm, hợp lý đã giúp thông tin trở nên sinh động, rõ ràng và dễ tiếp nhận hơn.
Hai là, thông tin về thích ứng BĐKH ở vùng ĐBSCL trên truyền hình đã góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng, xã hội một cách rõ rệt.
Truyền hình đã thường xuyên đưa tin về các tác động tiêu cực của BĐKH như hạn hán, sạt lở, xâm nhập mặn… bằng hình ảnh trực quan sinh động. Điều này làm cho người dân, đặc biệt ở vùng ĐBSCL, hiểu rằng BĐKH không còn là chuyện viễn vông mà là hiện thực đang ảnh hưởng hàng ngày. Các kênh truyền hình diện khảo sát đã giúp công chúng nhìn nhận đúng bản chất vấn đề, nâng cao nhận thức, cùng với cộng đồng chung tay ứng phó hiệu quả với BĐKH. Nhiều người dân cũng chia sẻ rằng nhờ xem các phóng sự trên tivi, họ biết thêm cách gia cố nhà cửa chống sạt lở, hoặc hiểu lý do vì sao cần chuyển đổi cây trồng cho phù hợp. Đây là thành công quan trọng về mặt xã hội, góp phần thay đổi tư duy của người dân từ chỗ thụ động cam chịu sang chủ động thích nghi với những tác động của BĐKH.
Ba là, truyền hình góp phần phổ biến kịp thời các mô hình, sáng kiến và chính sách thích ứng với BĐKH, trở thành kênh truyền thông hiệu quả nối liền giữa chính quyền và người dân. Các chương trình của VTV và đài địa phương đã nhanh chóng truyền tải chủ trương, kế hoạch phát triển bền vững ĐBSCL, giúp người dân nắm bắt và ủng hộ chính sách. Đồng thời, việc giới thiệu, nêu gương các mô hình “thuận thiên”, sáng kiến cộng đồng hiệu quả đã thúc đẩy nhân rộng trong thực tiễn. Nhờ đó, truyền hình không chỉ lan tỏa tri thức và kinh nghiệm thích ứng đến đông đảo công chúng mà còn khẳng định vai trò dẫn dắt dư luận, hỗ trợ quá trình hoạch định và triển khai chính sách ứng phó BĐKH ở cấp địa phương.
Phát biểu của ông Phạm Tấn Hùng -Trưởng Ban Thời sự - Chuyên đề, Đài Phát thanh và Truyền hình TP. Cần Thơ, được trích từ cuộc phỏng vấn sâu do tác giả thực hiện vào tháng 6 năm 2025, tại Trụ sở Đài PT-TH TP. Cần Thơ. Cuộc phỏng vấn nằm trong khuôn khổ khảo sát thực trạng công tác tuyên truyền thích ứng với biến đổi khí hậu trên các đài truyền hình khu vực Đồng bằng sông Cửu Long “Thời gian qua, Đài đã xây nhiều chương trình và phát ở những khung phù hợp nhất để người dân dễ dàng tiếp nhận được thông tin. Về nội dung, luôn đổi mới theo hướng tích hợp đa phương tiện, phát huy lợi thế truyền hình là hình ảnh để người xem thấy được, nhận thức và thực hiện, làm theo…Về tổ chức sản xuất, bằng nhiều phương thức, người phóng viên quay phim cũng như biên tập viên xác định đề tài, triển khai nội dung kịch bản và kịch bản truyền hình, xác định được điểm nhấn của kịch bản, chương trình và quay phim sẽ đặt tả, chi tiết hình ảnh để tăng tính hấp dẫn cũng như thu hút người xem. Với lợi thế của truyền hình, khả năng tiếp nhận thông tin của người xem rất cao”.
2.4.2. Hạn chế
Một là, số lượng và thời lượng thông tin chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn.
Mặc dù tần suất, số lượng thông tin đã tăng lên, nhưng nhìn chung nội dung về thích ứng BĐKH trên truyền hình vẫn còn mỏng so với mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Nhiều bản tin thời sự tổng hợp (15-30 phút) chỉ dành vài phút cuối cho tin tức về môi trường - khí hậu, dễ bị lu mờ sau các tin an ninh, chính trị, kinh tế-xã hội ( Bản tin Thời sự VTV Cần Thơ lúc 19h45 hàng ngày, Bản tin Thời sự Đài PT-TH Cà Mau lúc 18h30, Bản tin Thời sự Sóc Trăng lúc 11h30 hoặc 18h30).Các chuyên mục môi trường định kỳ hàng tuần ở đài địa phương cũng chưa được duy trì đều đặn, thường lồng ghép hoặc phát xen kẽ khi có sự kiện. Đài PT-TH Cần Thơ từng có chuyên mục “Vì môi trường xanh” (phát vào sáng thứ Bảy, khoảng 10 phút), giới thiệu mô hình xử lý rác thải, thích ứng BĐKH trong nông nghiệp.Tuy nhiên, từ giữa năm 2024, chuyên mục này không phát đều mỗi tuần, nhiều tuần chỉ lồng ghép phóng sự môi trường vào bản tin “Đời sống – xã hội” hoặc “Thời sự Cần Thơ”. Đài PT-TH Cà Mau có chương trình “Môi trường & Cuộc sống”, dự kiến phát 2 lần/tháng, nhưng trên thực tế tần suất không đều có tháng phát 1 lần, có tháng không phát. Nhiều nội dung chỉ được phát xen kẽ trong khung “Tạp chí Nông nghiệp – Nông thôn” hoặc chuyên mục “Kinh tế địa phương”, nên thiếu sự nhận diện riêng. Đài PT-TH Sóc Trăng từng duy trì chuyên mục “Vì tương lai xanh”, nhưng không có lịch cố định hàng tuần. Nội dung chủ yếu sản xuất theo đơn đặt hàng hoặc dịp đặc biệt, ví dụ nhân sự kiện “Ngày Trái Đất”, “Tuần lễ Biển và Hải đảo”.
Nói cách khác, thông tin về thích ứng với BĐKH chưa thực sự trở thành chủ đề ưu tiên cao trong dòng thông tin chủ lưu. Điều này dẫn đến tình trạng thông tin chưa bao quát hết các khía cạnh: vẫn còn những góc khuất hoặc địa bàn chịu ảnh hưởng nhưng ít được nhắc đến nếu không xảy ra sự kiện nổi bật, hoặc nhiều mô hình, sáng kiến hay trong việc thích ứng với BĐKH chưa được giới thiệu.
Hai là, chất lượng nội dung thông tin chưa đồng đều, thiếu chiều sâu phân tích và tính phản biện.
Phần lớn nội dung truyền thông hiện nay thiên về phản ánh bề nổi như sự kiện gì xảy ra, mô hình nào hiệu quả nhưng chưa đi sâu điều tra, mổ xẻ các nguyên nhân gốc rễ hay những vướng mắc trong chính sách. Hầu hết thông tin mang giọng điệu tích cực, chính thống; rất hiếm chương trình dám đặt câu hỏi “vì sao thất bại?” hoặc “ai chịu trách nhiệm?”. Chẳng hạn, khi phản ánh một dự án chống hạn chậm tiến độ, truyền hình thường chỉ nói chung chung do thiếu vốn hoặc khó khăn khách quan, mà không dám chỉ rõ đơn vị, cá nhân nào tắc trách. Tâm lý “e dè, an toàn” này xuất phát từ tính chất nhạy cảm của đề tài: thích ứng BĐKH liên quan nhiều ngành, nhiều cấp, dễ động chạm nếu đi sâu phê bình.
Ba là, hình thức thể hiện tuy đã có nhiều cải thiện nhưng vấn còn thiếu sáng tạo, chưa hấp dẫn giới trẻ: một số chương trình (đặc biệt là phóng sự, tọa đàm trên đài địa phương như CTV, THTPCT) có nhịp điệu chậm, phong cách truyền thống, dễ gây cảm giác khô khan. Ví dụ, nhiều phóng sự vẫn theo công thức quen thuộc: mở đầu cảnh thiên tai, rồi lần lượt ý kiến người dân - chính quyền, cán bộ địa phương - chuyên gia, kết luận bằng lời kêu gọi chung chung. Cách dàn dựng này lặp đi lặp lại khiến khán giả trẻ “xem một lần là đoán được mười lần”. Giới trẻ ngày nay vốn quen với nội dung ngắn gọn, trực quan, tương tác cao trên mạng xã hội, do đó họ khó kiên nhẫn với những chương trình thiếu điểm nhấn. Mặc dù các đài đã có cố gắng đổi mới (đưa người dẫn hiện trường, ứng dụng đồ họa hiện đại), nhưng nhìn chung mức độ sáng tạo chưa đột phá. Một đến hai chương trình sử dụng các công nghệ truyền hình mới như thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR) hay đồ họa động để mô phỏng sinh động thông tin khí hậu. Việc tương tác với khán giả qua mạng xã hội, bình chọn, hỏi đáp trực tiếp hầu như chưa có trong các chương trình truyền hình về thích ứng với BĐKH.
Ba là, các kênh truyền hình diện khảo sát vẫn chưa tận dụng hiệu quả nền tảng số và truyền thông đa phương tiện:
Trong bối cảnh chuyển đổi số, nội dung truyền hình cần được lan tỏa trên nhiều nền tảng (website, mạng xã hội, YouTube…) để tiếp cận tối đa công chúng. Tuy nhiên, các kênh truyền hình trong diện khảo sát chưa thật sự làm tốt điều này. Nhiều phóng sự hay về thích ứng với BĐKH được phát sóng nhưng không được đăng tải kịp thời trên mạng, hoặc đăng mà thiếu tối ưu (tiêu đề chưa thu hút, không có phụ đề tiếng Anh…). Lượng tương tác số vì thế rất thấp, nhiều video trên YouTube của VTV Cần Thơ chỉ vài trăm lượt xem (Đài PT-TH Cà Mau phát sóng phóng sự “Người dân Đất Mũi sống chung với triều cường” trong khung giờ 19h45 ngày 15/7/2025.Trên kênh YouTube VTV Cần Thơ, phóng sự “Mô hình nuôi tôm – trồng rừng thích ứng biến đổi khí hậu” chỉ đạt hơn 300 lượt xem sau 1 tháng. Trang Facebook của Đài PT-TH Cần Thơ gần 200.000 lượt theo dõi chủ yếu đăng tin hành chính, thông báo chương trình hoặc chúc mừng ngày lễ).Đài Cà Mau, Cần Thơ đều có fanpage Facebook nhưng chủ yếu đăng tin tức hành chính, ít clip phóng sự đặc sắc. Đây là thiếu sót trong chiến lược truyền thông, làm hạn chế độ phủ thông tin thích ứng BĐKH tới nhóm khán giả trẻ online.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin thích ứng với BĐKH ở ĐBSCL trên truyền hình Việt Nam trong thời gian tới
Một là, nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về sản xuất và quản lý thông tin
Giải pháp đầu tiên, mang tính nền tảng, là nâng cao nhận thức và trách nhiệm về truyền thông thích ứng với BĐKH ở cả cấp quản lý và đội ngũ sản xuất chương trình. Đối với lãnh đạo các đài, cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò chiến lược của ĐBSCL và yêu cầu chủ động thích ứng BĐKH (theo Nghị quyết 120/NQ-CP năm 2017, Nghị quyết 13-NQ/TW năm 2022), coi truyền thông về BĐKH là nhiệm vụ chính trị - xã hội trọng tâm, được đưa vào kế hoạch dài hạn thay vì nội dung thứ yếu.
Trong quy trình sản xuất, mỗi bản tin, phóng sự cần gắn với mục tiêu nâng cao nhận thức và kêu gọi hành động cộng đồng, không chỉ dừng ở phản ánh hiện tượng. Biên tập viên phải định hướng rõ thông điệp xã hội, khuyến khích phóng viên tác nghiệp có trách nhiệm và sáng tạo hơn. Đồng thời, cần tăng cường sinh hoạt nghiệp vụ, hội thảo nội bộ, mời chuyên gia khí hậu và phóng viên giàu kinh nghiệm chia sẻ kỹ năng, cập nhật kiến thức và thuật ngữ chuyên ngành. Cơ chế khen thưởng - kỷ luật minh bạch như tôn vinh tác phẩm xuất sắc, nhắc nhở đơn vị thiếu trách nhiệm sẽ giúp duy trì động lực và củng cố nhận thức lâu dài trong toàn hệ thống truyền thông.
Hai là, nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng nội dung, hình thức thông tin
Về nâng cao chất lượng nội dung: cần điều chỉnh tỷ trọng giữa các nhóm thông tin về thích ứng BĐKH để truyền hình vừa phản ánh thực tiễn, vừa định hướng dư luận hiệu quả. Với nhóm thông tin tác động của BĐKH, nên giảm số lượng, tăng chiều sâu, gắn hiện tượng với giải pháp và câu chuyện con người để tránh lặp lại, khô cứng. Trong khi đó, nhóm nội dung về mô hình và sáng kiến thích ứng cần được đẩy mạnh, lan tỏa tinh thần chủ động bằng các chuỗi chuyên đề như mỗi tuần một địa phương, xây dựng bản đồ sáng kiến ĐBSCL, có so sánh trong và ngoài nước nhằm tăng tính thuyết phục. Với nhóm nội dung chính sách, cần giảm cách thể hiện hành chính, tăng đối thoại, mời lãnh đạo và cán bộ kỹ thuật trực tiếp giải đáp thắc mắc để chính sách trở nên gần gũi, dễ hiểu và mang tính thực tiễn hơn. Trong bối cảnh sáp nhập các cơ quan báo chí - truyền thông địa phương từ 01/7/2025, để tránh trùng lặp nội dung, cần phân công chuyên trách theo thế mạnh từng tỉnh, đồng thời thành lập liên minh truyền hình ĐBSCL, chia sẻ dữ liệu, kho tư liệu số và phát sóng chéo các chuyên mục. Truyền hình vùng nên ưu tiên sản phẩm đặc sắc, khác biệt như phóng sự điều tra, talkshow phản biện, tọa đàm chính sách, vừa nâng cao thương hiệu, vừa tạo dấu ấn riêng cho từng đài.
Về đa dạng hóa và sáng tạo trong hình thức thể hiện: đây là giải pháp then chốt để tăng sức hấp dẫn và hiệu quả truyền thông về thích ứng với BĐKH. Trong bối cảnh công chúng ưa chuộng nội dung ngắn gọn, trực quan và đa nền tảng, truyền hình cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ mới như đồ họa dữ liệu, VR/AR, flycam, camera dưới nước, Big Data và AI để mô phỏng kịch bản, tạo bản đồ dự báo, infographic sinh động giúp người xem dễ hình dung. Cần đổi mới cách dẫn dắt theo hướng kể chuyện (storytelling), lồng ghép tiếng nói và trải nghiệm thực của người dân, sử dụng thủ pháp đối lập, ngôn ngữ gần gũi, học hỏi cách làm sáng tạo từ VTV24 và các kênh quốc tế. Về thể loại, nên mở rộng từ tin ngắn sang phóng sự, talkshow, vlog, gameshow môi trường hoặc livestream để tăng tính đối thoại và tương tác. Đồng thời, phải bảo đảm độ chính xác khoa học bằng việc hợp tác với cơ quan chuyên môn, trích dẫn nguồn tin rõ ràng. Đa dạng hóa hình thức không chỉ làm nội dung sinh động, hiện đại hơn mà còn củng cố tính khoa học, nâng cao sức lan tỏa và hiệu quả truyền thông về thích ứng với BĐKH.
Ba là, nhóm giải pháp tăng cường nguồn nhân lưc
Con người là yếu tố quyết định thành công của truyền thông, do đó cần đầu tư phát triển nguồn nhân lực ở cả cấp quản lý và sản xuất chương trình về BĐKH. Mỗi ban biên tập nên có cán bộ phụ trách chuyên mảng môi trường, BĐKH để định hướng nội dung; các đài trung ương và địa phương cần xây dựng nhóm phóng viên chuyên trách, được tập huấn nghiệp vụ, bám sát thực tiễn và trải nghiệm tại vùng chịu thiên tai nhằm nâng cao hiểu biết. Có thể mời chuyên gia môi trường hoặc nhà báo kỳ cựu làm cố vấn, kết hợp kiến thức khoa học với kỹ năng truyền hình để tăng tính chính xác và chiều sâu. Đồng thời, chính sách đãi ngộ, bảo đảm an toàn cho phóng viên tác nghiệp trong điều kiện khó khăn cần được chú trọng. Đội ngũ kỹ thuật viên, dựng phim, thiết kế đồ họa cũng cần được đào tạo và hợp tác với công ty công nghệ để tạo ra sản phẩm hiện đại, sinh động. Tóm lại, đầu tư toàn diện vào nhân lực, cả về chất lượng và sự chuyên môn hóa sẽ là nền tảng vững chắc cho việc sản xuất các sản phẩm truyền thông có giá trị, góp phần lan tỏa hiệu quả thông điệp thích ứng với BĐKH ở ĐBSCL.
Bốn là, nhóm giải pháp tăng cường nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ vào nâng cao chất lượng thông tin
Để hiện thực hóa các ý tưởng sáng tạo, cần bảo đảm nguồn ngân sách riêng cho chương trình môi trường, đồng thời huy động thêm tài trợ trong và ngoài nước (như UNDP, GIZ, doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội) để mở rộng sản xuất. Các đài cần đầu tư thiết bị chuyên dụng như máy quay chịu thời tiết khắc nghiệt, flycam, studio ảo, kho tư liệu số… giúp nâng cao chất lượng hình ảnh và tính chuyên nghiệp. Song song, ứng dụng công nghệ thông tin và AI trong quản lý, phân tích dữ liệu người xem, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và gắn thẻ tin bài để định hướng nội dung sát nhu cầu công chúng. Bên cạnh đó, nên học hỏi kinh nghiệm và công nghệ từ các đài lớn trong và ngoài nước nhằm hiện đại hóa quy trình sản xuất. Có thể nói, nguồn lực đầy đủ chính là “hậu cần” quyết định, giúp các ý tưởng truyền thông được triển khai thành những sản phẩm chất lượng, thiết thực và có sức lan tỏa cao.
Năm là, đa dạng hóa cách thức truyền tải thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình đa nền tảng hiện nay
Trong kỷ nguyên số, để nâng cao hiệu quả truyền thông về thích ứng với BĐKH ở ĐBSCL, các đài truyền hình cần đa dạng hóa phương thức truyền tải trên đa nền tảng, không chỉ giới hạn trong sóng truyền thống. Trước hết, cần phát triển hạ tầng số như website, ứng dụng OTT, fanpage, YouTube, TikTok…, đăng tải và chia sẻ toàn bộ nội dung phát sóng, thậm chí VTV Cần Thơ xây dựng chuyên mục riêng như “Mekong Xanh” để tập hợp thông tin. Đồng thời, tăng cường tương tác hai chiều qua mạng xã hội bằng clip ngắn, livestream hỏi - đáp với chuyên gia, tiếp nhận phản hồi và ý kiến từ cộng đồng để tạo sự gắn kết. Mỗi nội dung cần được biên tập đa định dạng phù hợp từng nền tảng: phóng sự dài trên TV, bài viết kèm ảnh trên web, video ngắn trên TikTok hay YouTube Shorts để thu hút công chúng trẻ. Các đài cũng nên liên kết với báo in, phát thanh, báo điện tử tạo chiến dịch truyền thông hợp lực, bảo đảm thông điệp xuất hiện liên tục và có sức lan tỏa. Cuối cùng, cần đánh giá hiệu quả truyền thông qua lượt xem, chia sẻ, bình luận để điều chỉnh nội dung sát nhu cầu khán giả. Mục tiêu của giải pháp đa nền tảng là “đi theo khán giả”, chủ động xuất hiện trên mọi phương tiện họ sử dụng, qua đó lan tỏa thông điệp thích ứng với BĐKH rộng rãi và bền vững hơn.
Tóm lại, để nâng cao hiệu quả truyền thông thích ứng với BĐKH trên truyền hình, việc tăng cường phối hợp giữa các bên liên quan là điều kiện tất yếu. Sự kết nối giữa truyền hình với nhà quản lý - nhà khoa học - cộng đồng không chỉ bổ sung dữ liệu và góc nhìn, mà còn tạo ra một hệ sinh thái truyền thông đa chiều, góp phần định hướng hành vi cộng đồng, lan tỏa giải pháp và thúc đẩy thực hiện chính sách thích ứng với BĐKH một cách bền vững, thực chất./.
___________________________________________
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011), Kịch bản Biến đổi Khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam, Hà Nội, truy cập tại: http://www.imh.ac.vn/files/doc/KichbanBDKH/KBBDKH_2016.pdf
2. Viện ngôn ngũ học (2001), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, trang 824
3. Luật Bảo vệ Môi trường 2020, truy cập tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Tai-nguyen-Moi-truong/Luat-so-72-2020-QH14-Bao-ve-moi-truong-2020-431147.aspx
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
- Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
- Nâng cao năng lực tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ báo chí - truyền thông trong bối cảnh thông tin hiện nay
- Tích hợp giảng dạy AI trong đào tạo báo chí, truyền thông: Tiếp cận từ đặc điểm người học
- Truyền thông hình ảnh về Tổng Bí thư Tô Lâm trên báo Nhân Dân điện tử
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
5
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
6
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Bài viết phân tích sự cần thiết của việc xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại các thư viện. Cung cấp thông tin về hoạt động tình nguyện viên tại các thư viện trên thế giới và Việt Nam. Sự cần thiết xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Đồng thời, bài viết đưa ra một số giải pháp xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học trong công tác xử lý tài liệu.
Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
Trước thực trạng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang chịu tác động nặng nề từ biến đổi khí hậu (BĐKH), Nghị quyết 120/NQ-CP (2017) của Chính phủ đã đề ra phương châm “thuận thiên”, định hướng phát triển bền vững thông qua thích ứng với tự nhiên, chuyển hóa thách thức thành cơ hội. Song hành cùng quá trình này, báo chí - truyền thông, đặc biệt là truyền hình, giữ vai trò then chốt trong việc lan tỏa mô hình sản xuất bền vững, giới thiệu sáng kiến thành công và nâng cao nhận thức cộng đồng. Tuy vậy, truyền hình vẫn đối mặt với thách thức về thời lượng, kinh phí và xu hướng công chúng chuyển sang nền tảng số, đòi hỏi sự đổi mới trong cách thức truyền tải thông tin để tiếp tục đồng hành cùng người dân ĐBSCL trong hành trình thích ứng với BĐKH.
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
Kỷ nguyên mới đặt ra những thách thức mới cho báo chí – truyền thông Việt Nam. Đã có một sự thay đổi rõ nét về khái niệm, mô hình tổ chức, nội dung và mối quan hệ với công chúng dưới tác động của công nghệ số. Trong quá trình đó, vai trò định hướng xuyên suốt của Đảng trong phát triển báo chí cách mạng, nhất là trong giai đoạn 2006–2025 là đặc biệt sâu sắc. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất các yêu cầu cấp thiết và ba nguyên tắc cốt lõi nhằm phát triển nền báo chí – truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới.
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
Báo chí đa nền tảng (Multi platform journalism) đã trở thành xu hướng tất yếu trên thế giới và tại Việt Nam những năm gần đây. Tại Việt Nam, sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu 70% cơ quan báo chí đưa nội dung lên các nền tảng số vào năm 2025 và 100% vào năm 2030, báo chí đa nền tảng càng được các tòa soạn đầu tư phát triển, tập trung vào ba nền tảng chính: nền tảng xã hội (social), nền tảng di động (mobile), nền tảng web. Bài viết sẽ đi sâu vào nghiên cứu về sự phát triển của xu hướng báo chí đa nền tảng ở Việt Nam hiện nay, những vấn đề đặt ra ở góc độ nguồn nhân lực, từ đó, đề xuất một số giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực báo chí truyền thông đáp ứng nhu cầu phát triển báo chí đa nền tảng tại Việt Nam.
Nâng cao năng lực tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ báo chí - truyền thông trong bối cảnh thông tin hiện nay
Nâng cao năng lực tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ báo chí - truyền thông trong bối cảnh thông tin hiện nay
Kỷ nguyên số đã tạo ra một bối cảnh thông tin phức tạp chưa từng có, đặt ra những thách thức sâu sắc đối với báo chí - truyền thông Việt Nam. Sự bùng nổ của nội dung do Trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, tin giả, và thông tin sai lệch trên các nền tảng mạng xã hội sẽ làm xói mòn lòng tin công chúng và uy tín của báo chí. Trong bối cảnh này, việc nâng cao năng lực tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí - truyền thông trở thành yêu cầu cấp thiết, không chỉ để duy trì chất lượng thông tin mà còn để bảo vệ nền tảng tư tưởng, định hướng dư luận xã hội và góp phần vào sự ổn định quốc gia. Bài viết phân tích, đề cập về vấn đề tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp trong báo chí Việt Nam, chỉ ra những biểu hiện tích cực, các hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời nhấn mạnh vai trò của cơ quan quản lý, các tổ chức báo chí và sự tự thân rèn luyện của mỗi nhà báo, hướng tới xây dựng một nền báo chí vững mạnh, bản lĩnh và có trách nhiệm trong kỷ nguyên mới.
Bình luận