Vai trò của công tác kiểm tra đối với việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên
Công tác kiểm tra có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng Đảng nói chung và trong đấu tranh khắc phục sự suy thoái tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên nói riêng. Nó góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, làm cho sự lãnh đạo gắn bó với thực tiễn, đảm bảo sự thống nhất giữa đường lối, chính sách với việc tổ chức thực hiện, giữa lời nói và việc làm, giúp cấp uỷ, tổ chức đảng khắc phục được bệnh quan liêu, chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo, ngăn chặn sự chia rẽ, mất đoàn kết và suy thoái về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên. Sinh thời V.I.Lênin đánh giá rất cao vai trò của công tác kiểm tra. Người cho rằng vấn đề mấu chốt, trung tâm của toàn bộ công tác cách mạng là công tác kiểm tra, kiểm soát đối với tổ chức, con người và công việc. Buông lỏng kiểm tra cũng có nghĩa buông lỏng lãnh đạo và quản lý. Mọi sự buông lỏng này đều dẫn tới sự suy yếu tổ chức bộ máy, hư hỏng, thoái hoá cán bộ, đảng viên. Người nhấn mạnh: “Kiểm tra nhân viên công tác và kiểm tra việc chấp hành thực tế công tác - mấu chốt của toàn bộ công tác của toàn bộ chính sách hiện nay là ở đấy, vẫn ở đấy, và chỉ có ở đấy”(1).
Hồ Chí Minh khi bàn đến những việc cần làm của các cơ quan lãnh đạo đã chỉ rõ: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba việc ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”(2).
Quán triệt và vận dụng sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, trong những năm qua công tác kiểm tra của Đảng đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng; giữ gìn nguyên tắc và sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; xây dựng đội ngũ cán bộ; đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, đáp ứng những đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, nâng cao uy tín của Đảng, thắt chặt mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng.
Tuy nhiên, công tác kiểm tra của Đảng đối với việc ngăn chặn, đẩy lùi và đấu tranh khắc phục sự suy thoái tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên trong thời gian qua còn bị buông lỏng, xem nhẹ, nhiều dấu hiệu vi phạm còn bỏ sót hoặc không được kiểm tra, việc xử lý kỷ luật ở một số nơi thực hiện chưa nghiêm túc. Do vậy, “Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng”(3), chưa được khắc phục. Có những cán bộ, đảng viên phạm sai lầm khuyết điểm kéo dài, thậm chí thoái hoá biến chất mà tổ chức không hay biết hoặc không kịp thời kiểm tra xử lý. Khi vụ việc đã xảy ra rồi thì tổ chức kiểm điểm qua loa, không dám nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá, kết luận đúng sự thật mà thường nể nang, né tránh dẫn đến việc xử lý kỷ luật ở một số tổ chức đảng không nghiêm, làm hạn chế tác dụng phòng ngừa, giáo dục. Thậm chí có những cán bộ đã có biểu hiện suy thoái nhưng lại được đánh giá tốt, lại được đề bạt, giới thiệu đề cử vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong bộ máy của Đảng và Nhà nước hoặc được điều chuyển công tác bố trí ở vị trí cao hơn.
Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, trong đó có phần công tác kiểm tra của Đảng còn nhiều yếu kém, bất cập, nhiều cấp uỷ đảng chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vai trò của công tác kiểm tra đối với việc ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Một số tổ chức đảng coi nhẹ, buông lỏng, thậm chí thành kiến với công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng, không coi công tác kiểm tra là một biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng suy thoái. Một nguyên nhân quan trọng, phổ biến hiện nay là bệnh quan liêu - căn bệnh nguy hiểm nhất của Đảng cầm quyền. Đó là tình trạng “những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn”(4). Công tác cán bộ, nhất là việc quản lý và rèn luyện cán bộ, đảng viên còn nhiều thiếu sót, bất cập. Có những cán bộ lãnh đạo không nắm chắc người thuộc diện mình quản lý chỉ khi cán bộ dưới quyền suy thoái, hư hỏng, tham nhũng, sa đoạ có đơn từ khiếu kiện, bị báo chí phanh phui mới bị động đi kiểm tra, xác minh. Một số cơ quan tham mưu và cán bộ kiểm tra nhiễm tác phong quan liêu, không có khả năng phát hiện, nắm bắt được tình trạng suy thoái, không điều tra nghiên cưú cụ thể, thậm chí buông lỏng, tắc trách trong công tác quản lý cán bộ, đảng viên. Mặt khác, công tác kiểm tra thường làm một chiều từ trên xuống, chưa mở rộng dân chủ, chưa coi trọng kiểm tra từ dưới lên, chưa có quy chế và tổ chức cho cấp dưới, nhân dân kiểm tra, giám sát công việc, tư cách của cán bộ lãnh đạo cấp trên.
Thực tiễn cũng cho thấy bệnh quan liêu thường đi liền với bệnh chủ quan và bệnh thành tích. Vì quan liêu nên khi đánh giá tình hình thường hời hợt chủ quan một chiều, buông xuôi, không hiểu đúng thực chất và nắm chắc tình trạng suy thoái để răn đe, ngăn chặn ngay từ đầu, đến khi sự việc diễn biến phức tạp thì bối rối, bất ngờ, đối phó, lúng túng, xử lý bị động và không chính xác. Bị bệnh quan liêu thường ham thành tích nên thường sợ khuyết điểm, sợ mất thành tích, sợ trách nhiệm, sợ bị phê bình, từ đó né tránh, che dấu khuyết điểm hoặc khuyếch trương thành tích, đến khi sự việc vỡ lở thì thoái thác trách nhiệm, đổ lỗi cho tập thể, cho khách quan. Một nguyên nhân khác là do kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm, chưa kiên quyết, chưa đủ sức ngăn chặn, răn đe đối với những kẻ thoái hoá, biến chất. Điển hình của tình trạng này trong thời gian qua là trường hợp Bùi Tín, Quế Dương, Đan Quế, Nguyễn Thanh Giang, biểu hiện suy thoái ban đầu mới chỉ là sự thiếu thống nhất về một số vấn đề quan hệ đến nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhưng không có biện pháp ngăn chặn kịp thời, kỷ luật Đảng không nghiêm dẫn đến mức độ suy thoái của họ ngày càng trầm trọng thêm, tán phát tài liệu, truyền bá quan điểm sai trái, vi phạm nguyên tắc Đảng và pháp luật của Nhà nước, móc nối với các phần tử phản động trong và ngoài nước để chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Một nguyên nhân nữa cũng khá phổ biến hiện nay là hiện tượng “trên bảo, dưới không nghe”, “nói không đi đôi với làm” hoặc tình trạng “nhờn thuốc”, hữu khuynh, né tránh trong xem xét, đánh giá, phê bình cán bộ, đảng viên.
Để khắc phục những yếu kém, bất cập nêu trên và phát huy vai trò của công tác kiểm tra trong việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên hiện nay, cần quan tâm làm tốt một số vấn đề sau:
Một là, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị- xã hội, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vai trò của công tác kiểm tra đối với việc ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên hiện nay. Trước hết cần đổi mới triệt để tư duy, khắc phục tình trạng nhận thức không đúng, không đầy đủ, những định kiến sai lầm đối với công tác kiểm tra và vấn đề thi hành kỷ luật Đảng. Công tác kiểm tra phải trở thành công việc thường xuyên, trực tiếp hàng ngày của các cấp uỷ đảng, của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành chứ không chỉ của cơ quan tham mưu, uỷ ban kiểm tra các cấp. Nội dung công tác kiểm tra của Đảng cần tập trung chủ yếu vào kiểm tra việc chấp hành và thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra dấu hiệu vi phạm và hành vi vi phạm của các tổ chức đảng, cơ quan Nhà nước và cán bộ, đảng viên; đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên, nhất là đấu tranh với các quan điểm sai trái, cơ hội chính trị, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; góp phần giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
Đặc biệt, công tác kiểm tra cần coi đấu tranh ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự tồn vong và phát triển của Đảng và chế độ. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng không cho phép có sự “lấn sân” hoặc có “vùng cấm” kể từ trong Đảng đến các cơ quan bảo vệ pháp luật, mà cần có sự phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật thực thi luật pháp bình đẳng như mọi công dân khác đối với cán bộ, đảng viên có dấu hiệu phạm pháp, phạm tội . Trong quá trình thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải nhận thức thống nhất, tự giác chấp hành, thực sự gương mẫu, nêu gương thuyết phục quần chúng và nghiêm khắc với bản thân.
Đối với cán bộ, đảng viên không có một đặc quyền nào, trừ một quyền là luôn ở phía trước, có mặt ở những nơi khó khăn nhất và khi họ mắc sai lầm, khuyết điểm thì “phải trừng phạt nặng hơn gấp ba lần so với những người ngoài Đảng”(5) và nhân viên. Thực hiện phương châm xử lý: trên trước, dưới sau; nặng với trên, nhẹ với dưới; nghiêm khắc với những kẻ ngoan cố, tái phạm nhiều lần, khoan hồng với những người lầm đường, lạc lối, thành khẩn, hối cải...Có nhận thức thống nhất các vấn đề nêu trên thì trong thực tiễn công tác kiểm tra mới có tác dụng và mang lại hiệu quả thiết thực, đẩy lùi và chặn đứng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên hiện nay.
Hai là, công tác kiểm tra cần tập trung làm rõ những biểu hiện và mức độ của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong đó cần lưu ý những biểu hiện như thiếu thống nhất về nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật; phai nhạt lý tưởng cách mạng, mơ hồ về bản chất giai cấp của Đảng, dao động hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa, đi ngược lại đường lối, chính sách của Đảng; kịp thời phát hiện và đưa ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội chính trị, vi phạm nguyên tắc, Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước; những kẻ thoái hoá, biến chất về đạo đức, lối sống. Do đó, công tác kiểm tra không chỉ nhằm phát hiện sai phạm và xử lý sai phạm, mà điều quan trọng là biết phát hiện, ngăn chặn tình trạng suy thoái ngay từ những biểu hiện ban đầu, nghiên cứu phân tích nguồn gốc, nguyên nhân của tình trạng suy thoái, rút kinh nghiệm đưa ra những biện pháp chặn đứng khuyết điểm, sai lầm, cứu vớt được nhiều cán bộ, đảng viên suy thoái.
Kiểm tra không chỉ nhằm vào những cán bộ, đảng viên đã có sai phạm mà còn cần kiểm tra, nghiên cứu cả những cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, giữ vững bản lĩnh chính trị, nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, gương mẫu về đạo đức, lối sống... để tìm ra các bài học hay, những kinh nghiệm bổ ích giúp cho việc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị một cách hiệu quả hơn.
Công tác kiểm tra cần tập trung sức lực và trọng tâm vào việc tổ chức chỉ đạo thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là kiểm tra để đôn đốc và tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới. Cơ quan lãnh đạo có trách nhiệm quản lý cán bộ, đảng viên trong diện được phân cấp và chịu trách nhiệm trước cấp trên về tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên. Do vậy, không thể thiếu việc kiểm tra công việc và tư cách của cán bộ, đảng viên. Không kiểm tra và buông trôi lãnh đạo hoặc có kiểm tra nhưng mang tính hình thức, chất lượng thấp, hiệu quả kém là mảnh đất tốt cho tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên ngày càng gia tăng.
Công tác kiểm tra cần xây dựng kế hoạch nghiêm túc, nắm vững những vấn đề chủ yếu, những đối tượng cụ thể để xử lý, giải quyết dứt điểm ở từng tổ chức và từng cá nhân. Phối hợp công tác kiểm tra của các cơ quan tham mưu về công tác tư tưởng với uỷ ban kiểm tra để kịp thời phát hiện các dấu hiệu và mức độ suy thoái về tư tưởng chính trị. Phối hợp các hình thức kiểm tra, coi trọng cả kiểm tra thường xuyên, đột xuất, định kỳ và phương pháp kiểm tra trực tiếp, gián tiếp.
Kiểm tra thường xuyên giúp cơ quan lãnh đạo, quản lý cán bộ, đảng viên nắm chắc tình hình mọi mặt và có hệ thống về quá trình hoạt động, rèn luyện, tu dưỡng của cán bộ, đảng viên. Qua kiểm tra thường xuyên cơ quan quản lý cán bộ nắm được những thông tin cần thiết, kịp thời uốn nắn, ngăn chặn ngay từ đầu những biểu hiện vi phạm. Đồng thời, kiểm tra thường xuyên thúc đẩy, động viên sự nỗ lực phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên, nhắc nhở họ giữ vững nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu, chủ động sáng tạo trong công việc, giữ vững phẩm chất và đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Kiểm tra thường xuyên là một phương thức lãnh đạo thiết thực, hữu ích nên cần tránh phô trương, lãng phí, hình thức, chiếu lệ. Kiểm tra cần coi trọng đánh giá, kết luận khách quan, trung thực và công bố công khai kết quả kiểm tra.
Cùng với việc kiểm tra thường xuyên cần coi trọng việc kiểm tra đột xuất và kiểm tra định kỳ đối với cán bộ, đảng viên. Qua đó, đánh giá khách quan, toàn diện việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước của cán bộ, đảng viên, đồng thời phát hiện chính xác những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của họ để kịp thời xử lý và ngăn chặn, tránh để ảnh hưởng lan toả sang người khác hoặc để các thế lực thù địch móc nối, lợi dụng.
Công tác kiểm tra cần coi trọng cả phương pháp kiểm tra trực tiếp và kiểm tra gián tiếp. Kiểm tra trực tiếp đòi hỏi người lãnh đạo, cơ quan quản lý cán bộ phải đi tận nơi, xem tại chỗ để hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng, điều kiện, môi trường công tác của cán bộ, đảng viên. Thông qua trao đổi tiếp xúc trực tiếp với cán bộ, đảng viên người lãnh đạo, cơ quan quản lý cán bộ biết rõ ưu khuyết điểm của từng người, kịp thời giải quyết những khó khăn vướng mắc và nguyện vọng của họ, qua đó cũng phát hiện được những biểu hiện của tình trạng suy thoái để uốn nắn khắc phục và đấu tranh, ngăn chặn một cách có hiệu quả. Cùng với việc kiểm tra trực tiếp cần coi trọng việc kiểm tra gián tiếp thông qua thư từ, kiến nghị, tin tức từ các phương tiện thông tin đại chúng và đặc biệt coi trọng sự phản ánh của cấp uỷ, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở nơi cán bộ, đảng viên công tác và cư trú.
Ba là, cùng với việc nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của cơ quan lãnh đạo, cơ quan kiểm tra cần coi trọng và mở rộng dân chủ, dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ, quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên. Thực tế cho thấy, các vụ việc tiêu cực gắn với sự suy thoái về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên trong thời gian qua phần nhiều do nhân dân, công luận phát hiện và kịp thời báo cáo với tổ chức đảng, các cơ quan hữu trách để lần ra manh mối đấu tranh kịp thời, trong khi việc nắm bắt, phát hiện tình trạng suy thoái của cán bộ, đảng viên nhất là với đối tượng có chức, có quyền của tổ chức đảng và các cơ quan chức năng lại rất hạn chế. Do vậy, cùng với việc nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của cơ quan lãnh đạo, cán bộ lãnh đạo, cán bộ kiểm tra, cần mở rộng dân chủ, xây dựng và hoàn thiện quy chế tăng cường kiểm tra từ dưới lên và đặc biệt coi trọng sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Sinh thời các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin rất coi trọng phương pháp kiểm tra từ dưới lên. V.I. Lênin cho rằng: “những hình thức và những phương pháp kiểm tra từ dưới lên, càng phải hết sức muôn vẻ để làm tê liệt mọi khả năng, dù nhỏ đến đâu, dẫn tới xuyên tạc chính quyền xô viết, để tiếp tục và luôn luôn trừ cho tiệt cái thứ cỏ dại chủ nghĩa quan liêu”(6). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: “Kiểm soát có hai cách: một cách từ trên xuống. Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình. Một cách nữa là từ dưới lên. Tức quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên”(7).
Để cách kiểm tra từ dưới lên mang tính thực chất và đem lại hiệu quả thiết thực, điều quan trọng là phải mở rộng dân chủ trong nội bộ Đảng và trong hệ thống chính trị, tăng cường nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Không mở rộng dân chủ trong sinh hoạt Đảng, không có quy chế phát huy quyền làm chủ, là chủ của nhân dân thì việc kiểm tra từ dưới lên chỉ còn là việc làm hình thức, là lời nói suông. Ngược lại, việc kiểm tra từ dưới lên được mở rộng, tiến hành thường xuyên và thực chất sẽ là biện pháp căn bản ngăn chặn có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên.
Theo đó, mọi cán bộ, đảng viên bất kể giữ chức vụ nào đều chịu sự quản lý, kiểm tra, giám sát của tổ chức, của nhân dân nơi mình công tác và cư trú. Quyền hành càng cao, trách nhiệm càng lớn thì càng phải kiểm tra, giám sát chặt chẽ, vì một việc làm đúng hay sai của họ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và sự tồn vong của tổ chức, của quốc gia và chế độ. Chi bộ, đảng bộ cơ sở quản lý mọi đảng viên kể đảng viên là thủ trưởng đơn vị có quyền chất vấn, yêu cầu họ giải trình những việc có dấu hiệu vi phạm Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Kiểm tra, phê bình những khuyết điểm của họ về đạo đức, tác phong, lối sống nếu có. Cần có quy chế, quy định cụ thể để đảng viên là cán bộ lãnh đạo tự giác chịu sự kiểm tra, giám sát của chi bộ, của cấp uỷ nơi công tác, nơi cư trú tránh việc tự đặt mình lên trên tổ chức, lên trên tập thể. Đồng thời, cần tăng cường trách nhiệm và tính chiến đâú của tổ chức, của tập thể trong quản lý cán bộ, đảng viên, khắc phục tình trạng e dè, nể nang, bao che, lẩn tránh trách nhiệm. Nhanh chóng xây dựng và ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong nội bộ Đảng từ Trung ương đến cơ sở.
Công tác kiểm tra cần thật sự coi trọng và dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ, quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên; coi nhân dân là tai mắt của Đảng để tiến hành kiểm tra trong Đảng. Vì “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây dựng Đảng”(8). Không có sự kiểm tra, giám sát của nhân dân thì cán bộ, đảng viên dễ trở thành “quan cách mạng” chứ khó trở thành “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Thực tiễn hiện nay cho thấy không ít cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân, trong khi Đảng chưa có cơ chế cụ thể mang tính pháp lý nên nhân dân không có cơ sở để kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên hoặc nếu nhân dân có góp ý phê bình thì không ít cấp uỷ bỏ qua vì nhiều lý do nhất là chưa có quy định nào ràng buộc họ phải thực hiện. Đó cũng là lý do vì sao tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên trong thời gian qua vẫn chưa được chặn đứng. Do đó, Đảng cần sớm ban hành quy chế mang tính pháp lý để nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mặt khác, cần thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở và tiếp tục hoàn thiện quy chế này để nhân dân phát huy trên thực tế quyền làm chủ, là chủ của mình trong mọi mặt của đời sống xã hội.
Bốn là, thường xuyên coi trọng việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp.
Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của uỷ ban kiểm tra các cấp có vai trò rất lớn trong việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ kiểm tra của Đảng, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên hiện nay. Một bộ máy vững mạnh, trong sạch, hiệu lực, hiệu quả sẽ có cơ sở và điều kiện thu hút, kết nạp những phần tử tốt vào trong tổ chức đó, đồng thời có khả năng đào thải những thành viên gây cản trở sự phát triển của bộ máy, làm cho bộ máy ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ cách mạng.
Thực tiễn những năm qua cho thấy nơi nào bộ máy kiểm tra các cấp phát huy được vai trò, trách nhiệm của mình, nơi đó công tác kiểm tra của Đảng được triển khai tốt và phát huy tác dụng, kịp thời phát hiện và ngăn chặn có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên. Ngược lại, ở đâu bộ máy kiểm tra yếu kém, công tác kiểm tra bị xem nhẹ, nơi đó nguyên tắc, Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước bị vi phạm nghiêm trọng, hiện tượng cơ hội về chính trị của cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng và khó được kiểm soát. Hơn nữa, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên hiện nay là rất nghiêm trọng, chưa được chặn đứng đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên. Cho nên, việc hoàn thiện bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp là một yêu cầu cấp bách.
Mặt khác, thực tiễn cũng cho thấy với cơ chế cấp uỷ bầu uỷ ban kiểm tra như lâu nay đã bộc lộ những điều bất cập. Nếu ở đâu cấp uỷ không quan tâm và tạo điều kiện cho công tác kiểm tra, nhất là trước các vấn đề liên quan đến cán bộ lãnh đạo chủ chốt thì công tác kiểm tra rất khó tiến hành, thậm chí bó tay cho nên hạn chế đến chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra. Vì vậy, tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của uỷ ban kiểm tra các cấp phải được đổi mới và tăng cường nhất là phải thay đổi vị thế và quyền hạn của uỷ ban kiểm tra. Trong tình hình hiện nay, nhất là trước tác động mặt trái của cơ chế thị trường, trước những bất lợi của các nước xã hội chủ nghĩa, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng thì việc thành lập Uỷ ban kiểm tra và giám sát do đại hội bầu là một yêu cầu cấp thiết. Thực hiện được như vậy, nó mới có tính độc lập tương đối, có điều kiện để hoạt động đúng theo nguyên tắc, Điều lệ Đảng, nghị quyết của đại hội và thực sự phát huy được vai trò kiểm tra, giám sát của Đảng.
Cùng với việc hoàn thiện tổ chức bộ máy uỷ ban kiểm tra các cấp, cần hết sức coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra kể cả lực lượng chuyên trách và bán chuyên trách có đạo đức, phẩm chất trong sáng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, trung thực, có trình độ nghiệp vụ cao để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác kiểm tra trong tình hình mới.
Năm là, cần có sự phối hợp đồng bộ, khăng khít giữa các cơ quan chức năng để phát huy hơn nữa vai trò của công tác kiểm tra đối với việc ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên hiện nay. Nguyên nhân của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị có nhiều trong đó có các nguyên nhân cơ bản là công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa được coi trọng; công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn bị buông lỏng; nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng chấp hành chưa nghiêm; cán bộ, đảng viên còn thiếu sự cố gắng trong việc tu dưỡng, rèn luyện và học tập.
Để kịp thời khắc phục tình trạng nêu trên, công tác kiểm tra cần phối hợp đồng bộ với công tác tư tưởng và công tác tổ chức, cán bộ. Kiên quyết không để lọt vào bộ máy của Đảng và Nhà nước những phần tử cơ hội chính trị, thoái hoá, biến chất, yếu kém về phẩm chất, năng lực. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa uỷ ban kiểm tra và các ban tham mưu của Đảng với cơ quan thanh tra của Nhà nước và các đoàn thể. Không nên biệt lập hoạt động giữa các cơ quan này. Bởi vì, có kết hợp được sức mạnh của cả hệ thống kiểm tra thì hoạt động kiểm tra mới được tiến hành thuận lợi, mới phát huy được hiệu quả, kết quả kiểm tra mới đảm bảo độ chính xác, khách quan. Uỷ ban kiểm tra các cấp cần phối hợp với các cơ quan thanh tra, kiểm sát, công an và các cơ quan chức năng khác để phát hiện, xem xét kịp thời các hành vi vi phạm, kết luận rõ nội dung, mức độ, tính chất, tác hại của các biểu hiện suy thoái trong cán bộ, đảng viên. Không có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng thì uỷ ban kiểm tra rất khó tiến hành kiểm tra các trường hợp cán bộ không phải là đảng viên.
Khi xem xét xử lý, kỷ luật nếu vi phạm đến mức phải kỷ luật thì xử lý theo đúng quy định của Điều lệ Đảng. Cần tập trung xử lý dứt điểm, nghiêm minh những trường hợp vi phạm nghiêm trọng gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng và tư tưởng của cán bộ, đảng viên. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Đảng với các cơ quan Nhà nước và đoàn thể để xử lý đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng với kỷ luật của chính quyền và kỷ luật của đoàn thể. Khi xử lý phải đúng người, đúng tội theo đúng nguyên tắc, Điều lệ của Đảng và pháp luật của Nhà nước, bất kể cán bộ, đảng viên đó là ai và giữ cương vị gì. Hoạt động kiểm tra của Đảng, thanh tra của Nhà nước cần tuân thủ triệt để tính nghiêm minh, tính thống nhất và tính tối thượng của pháp luật. Đảng không đứng ngoài hoặc đứng trên pháp luật và không lấy hoạt động kiểm tra trong Đảng thay thế, hay lấn át hoạt động tư pháp của các cơ quan Nhà nước đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật dù họ ở bất cứ cương vị nào. Nhất quyết không sợ vì đấu tranh chống lại sự suy thoái sẽ làm mất một số cán bộ, đảng viên. Trong cuộc đấu tranh này có thể mất một ít cán bộ, đảng viên nhưng đổi lại Đảng, Nhà nước lấy lại được niềm tin của nhân dân, ngăn chặn được đà suy thoái về tư tưởng chính trị trong Đảng thì đó là việc làm thiết thực.
Công tác kiểm tra cần gắn chặt với việc giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc phê bình và tự phê bình trong sinh hoạt Đảng, coi đây là vũ khí đấu tranh nội bộ có hiệu quả nhất khi tiến hành hoạt động kiểm tra của Đảng đối với việc ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên hiện nay.
__________________________
Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 2 (tháng 3+4)/2005
(1) V.I. Lênin, Toàn tập, t.45, Nxb Tiến bộ, M,1977, tr.19.
(2). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, T.5, tr.520, tr.489.
(3). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9, Nxb CTQG, H, 2001, tr.76.
(4). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, T.6, tr.489.
(5). V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M,1977, t.44, tr.486.
(6). V.I. Lênin: Toàn tập, t.36, Nxb Tiến bộ, M,1977, tr.253-254.
(7). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, T.5, tr.288.
(8). Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2003, tr.6.
ThS Mai Đức Ngọc
Bài liên quan
- Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
- Tính nhân văn của Đề cương về văn hóa Việt Nam - động lực xây dựng, phát triển văn hóa đất nước bền vững trong thời đại Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 2 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 3 Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- 4 Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- 5 Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
- 6 Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Quản lý tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến sinh viên đại học hiện nay
Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đang tác động ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng đến mọi người, nhất là thế hệ trẻ, trong đó có sinh viên các trường đại học trên cả bình diện tích cực và tiêu cực. Thực tế cho thấy, việc tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến sinh viên có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng, cấp thiết nhằm tạo tâm lý lành mạnh trong cộng đồng sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của các trường đại học hiện nay. Vì vậy, bài viết làm rõ mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội; từ đó phân tích nội dung quản lý về tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến cộng đồng sinh viên, đưa ra một số yêu cầu giúp quản lý, tạo dựng bầu không khí tâm lý lành mạnh trong cộng đồng sinh viên, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của các trường đại học trong bối cảnh hiện nay.
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Chiều 31/10, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo sư, Tiến sỹ Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3).
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực không những góp phần đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng mà còn góp phần đảm bảo phúc lợi cho người lao động. Vì thế, trong quá trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực – yếu tố then chốt để Việt Nam đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển toàn diện, nhanh và bền vững. Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của nguồn nhân lực, Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã có những chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và đã đạt được những kết quả tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Song, bên cạnh những thành tựu, vẫn con những hạn chế nhất định, vì vậy, cần xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng yếu tố quyết định thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lợi thế cạnh tranh của tỉnh hiện nay trong thời gian tới.
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp sâu sắc đối với sự phát triển lý luận của Đảng về quyền con người. Những quan điểm của Tổng Bí thư sẽ tiếp tục là nguồn cảm hứng và định hướng quan trọng cho các hoạt động về quyền con người trong thời kỳ mới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Theo thông tin từ Hội đồng chuyên môn bảo vệ sức khỏe cán bộ Trung ương, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sau thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao, bệnh nặng, Đồng chí đã từ trần lúc 13 giờ 38 phút, ngày 19-7-2024, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Hưởng thọ 80 tuổi. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân” của Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Bình luận