Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước
Với cương vị là người đứng đầu Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong 24 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người khai sinh ra nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, mà còn là người thầy vĩ đại trong việc phát huy vai trò của nhân dân - chủ thể cao nhất, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được thực thi theo đúng tính chất quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Đến nay, việc phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, người dân về kiểm soát quyền lực nhà nước, cũng như cơ chế phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước có lúc, có nơi vẫn còn bất cập. Do đó, việc nghiên cứu, vận dụng các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề cấp thiết, nhằm tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Kiểm soát quyền lực nhà nước được bàn đến với nhiều định nghĩa khác nhau, song theo nghĩa chung nhất, đó là một hệ thống cơ chế, thể chế được thực hiện bởi nhà nước và xã hội nhằm xem xét, giám sát, phát hiện, bảo đảm cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, có hiệu quả.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, trong xã hội có giai cấp đối kháng, quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp thống trị; nếu chế độ nhà nước đó bị đập tan thì quyền lực nhà nước trở về tay nhân dân như chính cội nguồn ban đầu của nó, nhân dân là gốc, là chủ thể của quyền lực. Kế thừa và phát triển quan điểm của C.Mác và PhĂngghen, V.I.Lênin khẳng định, kiểm soát quyền lực nhà nước là một trong những chức năng lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, V.I.Lênin cho rằng, nhân dân là chủ thể kiểm soát nên cần phải hết sức coi trọng và phát huy vai trò nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Người yêu cầu tổ chức cho toàn dân tham gia kiểm tra và kiểm soát hoạt động của nhà nước, “tổ chức việc kiểm tra và kiểm soát từ dưới lên, một cách dân chủ, do chính nhân dân, các hội liên hiệp của nhân viên, của công nhân và của những người tiêu dùng, v.v.., thi hành”(1).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cách mạng Việt Nam, đưa sự nghiệp đấu tranh của nhân dân ta đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Những quan điểm về kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua vai trò nhân dân được Người vận dụng, phát triển, gồm một số nội dung chính sau:
Thứ nhất, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cách giám sát, phê bình, giúp đỡ Chính phủ.
Đề cao vai trò của nhân dân là quan điểm nhất quán, xuyên suốt sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi Người quan niệm, phải tổ chức sự kiểm soát quyền lực của nhà nước, mà muốn kiểm soát tốt thì phải có quần chúng giúp mới được. Người cho rằng, những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi theo cách từ trên xuống, nên bị hạn chế. Dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, trông thấy vấn đề theo cách từ dưới lên và cũng có hạn chế. Cho nên, Người lưu ý, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, thì tất yếu phải hợp kinh nghiệm cả hai bên lại. Tại kỳ họp Hội đồng Chính phủ cuối năm 1966, Người đã nêu lên thực trạng tại một số nơi, ở cấp cơ sở, có những cán bộ phụ trách, do rơi vào chủ nghĩa cá nhân, thiếu tinh thần phục vụ nhân dân, đã làm những điều đi ngược lại lợi ích của nhân dân.
Do vậy, Người luôn nhất quán khẳng định, chúng ta phải tin ở sự phê bình, kiểm soát của nhân dân. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Người viết: “Để cho dân chúng phê bình cán bộ, dựa theo ý kiến họ mà cất nhắc cán bộ, nhất định không xảy ra việc thiên tư, thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng. Đồng thời, do sự dùi mài của dân chúng, cán bộ và dân chúng đều tiến bộ, lại do đó, cán bộ và dân chúng đoàn kết chặt chẽ thêm”(2). Người luôn mong muốn nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc việc kiểm tra, kiểm soát nhà nước: “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là: người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”(3).
Thứ hai, nhân dân kiểm soát quyền lực bằng quyền bầu cử, bất tín nhiệm và quyền khiếu tố với đại biểu do mình cử ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ở quần chúng, khai hội, phê bình và bày tỏ ý kiến, bầu cử các ủy ban, các hội đồng, v.v.; đó là những cách quần chúng kiểm soát những người lãnh đạo”(4). Vậy nên, sau khi nước nhà giành được độc lập, Người đã chủ động đề xuất với Chính phủ tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước. Theo Người, tổ chức Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có đức, có tài, để gánh vác công việc nước nhà... Cũng từ Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Khi Quốc hội ra đời, sẽ cử ra Chính phủ và Chính phủ do nhân dân cử ra chính là Chính phủ của toàn dân.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bầu cử là quyền và nghĩa vụ cơ bản của nhân dân trong chế độ mới. Điều này được Người khẳng định ở Đại hội nhân dân Thủ đô chào mừng các vị ứng cử đại biểu Quốc hội tại Hà Nội, ra mắt cử tri ngày 24.4.1960. Trong lời phát biểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, việc lựa chọn những đại biểu như vậy là quyền lợi và cũng là nghĩa vụ của cử tri. Người đề cao giá trị mà lá phiếu cử tri mang lại, bởi nó là một dấu hiệu để khẳng định một sự thật rằng nhân dân đã thật sự làm chủ nước nhà. Trong tác phẩm Thường thức chính trị (năm 1953), Người nhấn mạnh: “Trong các cuộc bầu cử, công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn hóa, không phân biệt nòi giống đều có quyền tham gia. Đó là một cách rất hợp lý, để nhân dân lao động thực hành quyền thống trị của mình”(5).
Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, với những đại biểu không xứng đáng, nhân dân có quyền bất tín nhiệm. Trong bài nói chuyện với các đại biểu thân sĩ trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hóa vào đầu năm 1947, Người nêu lên tinh thần xây dựng Chính phủ vì nhân dân phục vụ, rằng nếu Chính phủ đó làm hại dân, thì nhân dân có quyền đuổi Chính phủ. Quan điểm của Người về quyền bất tín nhiệm đã được cụ thể hóa tại Điều thứ 20, Hiến pháp năm 1946: “Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra”. Điều này cũng được Người đề cập trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của mình”(6).
Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến quyền khiếu tố của nhân dân, coi đây cũng là cách thức để nhân dân tham gia trực tiếp vào việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong Thư gửi đồng bào Liên khu IV (năm 1950), Người viết: “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân, như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, v.v.. Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ. Khi ai có điều gì oan ức, thì có thể do các đoàn thể tố cáo lên cấp trên. Đó là quyền dân chủ của tất cả công dân Việt Nam. Đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng quyền ấy”(7).
Thứ ba, nhân dân kiểm soát quyền lực thông qua xây dựng thể chế dân chủ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chế độ của ta là chế độ dân chủ, vì nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ, còn Chính phủ là đày tớ của nhân dân... Theo đó, mọi công việc của Chính phủ từ việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3.9.1945, Người đề xuất “xây dựng hiến pháp dân chủ” để thể chế hóa quyền và nghĩa vụ của nhân dân. Lời nói đầu Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc - được Quốc hội khóa I thông qua ngày 9.11.1946, là thành quả kết tinh trí tuệ của Ban dự thảo do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban, đã nêu rõ, nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và xây dựng nước nhà trên nền tảng dân chủ. Điều thứ 1, Hiến pháp năm 1946 còn ghi nhận quyền lực nhà nước cao nhất thuộc về nhân dân: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Đánh giá về vai trò của Hiến pháp năm 1946 trong thể chế hóa chế độ dân chủ ở Việt Nam, Người khẳng định: “Chế độ do Hiến pháp năm 1946 xác nhận đã đảm bảo độc lập dân tộc và một nền dân chủ rộng rãi của nhân dân”(8). Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng thể chế dân chủ nhằm huy động vai trò của nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I, ngày 18.12.1959, Người nêu rõ: “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”(9).
Định hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế bầu cử phù hợp với sự phát triển của thực tiễn.
Hoàn thiện quy định và lộ trình, bảo đảm tốt nhất điều kiện về nắm bắt thông tin, nâng cao ý thức trách nhiệm về quyền làm chủ của nhân dân; lấy ý kiến cử tri về các ứng viên tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp trong quá trình bầu cử.
Kết hợp chặt chẽ giữa định hướng chính trị, cơ cấu về tỷ lệ đại biểu với quyền tự ứng cử, quyền đề cử của công dân; nâng cao số lượng cử tri tự ứng cử để phát huy tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân.
Tiếp tục nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong quá trình tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu ứng cử viên và giám sát hoạt động bầu cử, bảo đảm dân chủ và đúng luật định; khắc phục mọi biểu hiện hình thức, xem xét tiêu chuẩn, lai lịch chính trị, uy tín của ứng viên chưa chặt chẽ; bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lựa chọn, giới thiệu được những đại biểu thật sự ưu tú tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước.
Tạo điều kiện thuận lợi nhất để các ứng viên tham gia vận động, tiếp xúc cử tri, trình bày kế hoạch hành động sau khi trúng cử; phát huy vai trò của phương tiện thông tin, truyền thông về nhiệm vụ bầu cử, qua đó, cử tri ở từng địa bàn sẽ trực tiếp nắm được thông tin về năng lực, trình độ, phẩm chất, uy tín của các ứng viên, từ đó lựa chọn được những đại biểu ưu tú.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền bất tín nhiệm đại biểu của nhân dân.
Vấn đề bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân được quy định ở Điều 7 của Hiến pháp năm 2013, Điều 40 của Luật Tổ chức Quốc hội 2014 và Điều 41 của Nội quy kỳ họp Quốc hội ban hành kèm theo Nghị quyết số 102/2015/QH13, ngày 24.11.2015, theo đó, việc bảo đảm quyền bãi miễn của nhân dân đã được thực thi gián tiếp thông qua Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội, trong thời gian tới, tiếp tục hoàn thiện cơ chế để nhân dân tham gia có hiệu quả hơn vào việc bãi miễn đại biểu không xứng đáng.
Thứ ba, bổ sung các chế định pháp lý để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý Nhà nước và xã hội.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý Nhà nước và xã hội là cách thức kiểm soát quyền lực nhà nước hoàn toàn phù hợp với tình hình hiện nay. Thông qua việc góp ý, phê bình, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân sẽ ngăn ngừa được tình trạng lạm dụng quyền lực mưu lợi cá nhân của một bộ phận cán bộ, công chức. Các quyền này đã được chế định ở quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội...
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; góp phần quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng”(10). /.
___________________________________________________
(1) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, T.34, tr. 234.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, T.5, tr. 336.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.9, tr. 81.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.5, tr. 328.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.8, tr. 263.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.12, tr. 375.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.6, tr. 397.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.12, tr. 366.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.12, tr. 374.
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, T.I, tr. 173 - 174.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 21.7.2022
Bài liên quan
- Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
- Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
- Tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp cận từ góc độ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất, Người đã để lại di sản quý báu về tư tưởng, đạo đức, phong cách cho Đảng và Nhân dân ta. Di sản Hồ Chí Minh bao quát rộng lớn các vấn đề của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến lời dạy của Người trong Thư gửi “Quân nhân học báo” tháng 4/1949: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(1) là vấn đề có ý nghĩa thời sự đối với việc nghiên cứu, học tập của cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên làm công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng hiện nay.
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử đặc biệt, có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn, hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc về xây dựng Đảng cầm quyền, đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trải qua 55 năm, di huấn của Người về vấn đề này vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và thời đại.
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Suy ngẫm tư tưởng Hồ Chí Minh về “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” và nghiên cứu Điều 3 Quy định số 144 để thấy được bước phát triển của Đảng về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
Bình luận