Báo điện tử, trang tin điện tử và mạng xã hội – định hướng phát triển và quản lý
1. Bức tranh khái lược
Thế giới hiện có khoảng 2 tỷ người sử dụng Internet. Theo một cuộc khảo sát gần đây của Tổ chức Pew (Mỹ), 45% số người được hỏi đã trả lời rằng họ dựa vào Internet để đưa ra những quyết định mang tính bước ngoặt trong cuộc đời. Internet đã trở thành kênh thông tin gần gũi, tiện lợi, bổ ích và cả độc hại - tùy theo ý thức, mục đích của người dùng.
Mấy năm gần đây, cùng với báo chí và trang thông tin điện tử, trên Internet xuất hiện các mạng xã hội, các công cụ thông tin khác. Chúng phát triển nhanh, lan tỏa khắp toàn cầu, điển hình là Facebook, Twitter, YouTube, Google, Yahoochat, Gmail... Riêng Facebook, chỉ sau 5 năm ra đời, mạng xã hội này đã có hơn 800 triệu người dùng trên toàn thế giới. Ở những nước phát triển như Mỹ, cộng đồng châu Âu, một số nước châu Á, có hơn 50% số dân và gần như toàn bộ giới trẻ thường xuyên sử dụng mạng xã hội.
Từ cuối năm 2010 đến nay, những biến động chính trị, xã hội to lớn, sâu sắc ở Bắc Phi, Trung Đông (2 tổng thống bị lật đổ (Tunisia và Ai Cập), 1 tổng thống bị phế truất và chịu cái chết thảm khốc (Gadhafi của Lybia), 2 nước luôn đứng trước sóng gió (Yemen, Syria) đều có sự tham gia, hoặc chủ động, hoặc bị động, của các công cụ truyền thông trên Internet. Những người tham gia cuộc bạo động đường phố tháng 8 vừa qua ở Anh, những cuộc xuống đường “chiếm phố Wall” ở Mỹ và nhiều nước khác trong tháng 10, tháng 11, các cuộc biểu tình phản đối kết quả bầu cử ở Nga đầu tháng 12... đều sử dụng “vũ khí” lợi hại Facebook, Twitter, mạng xã hội, điện thoại di động. Đài BBC, trong bài viết có tựa đề “Cách mạng Iran - Thiên An Môn - Ai Cập” phát tháng 2 năm 2011, nêu ra phương thức để tạo nên những đám đông: kích động quần chúng xuống đường; triệt để lợi dụng các sự cố, tai nạn, những cái chết để tạo cớ bạo loạn; sử dụng điện thoại di động, mạng xã hội, báo chí, truyền thông để kích động, liên kết trong ngoài. Một số người đứng đầu chính phủ Anh, các nước phương Tây từng lớn tiếng hô hào “tự do cho Internet”, phê phán nước này, nước kia là “kẻ thù của Internet”, nhưng khi mặt trái của các phương tiện truyền thông này gây hậu quả ở chính nước họ, họ đã phải thốt lên: Internet, Facebook, Twitter là “công cụ của bạo loạn”.
Nhiều người phong cho Internet, các trang mạng xã hội là “quyền lực thứ 5”, sau 4 “quyền lực” đã được thế giới phương Tây “công nhận”: quyền lập pháp, tư pháp, hành pháp và ngôn luận báo chí. “Quyền lực thứ 5” này đã trở thành một sức mạnh to lớn, vượt lên trên, ra bên ngoài các biện pháp quản lý hành chính hay kỹ thuật của một quốc gia cụ thể. Điều đáng quan tâm là, cái quyền lực ấy không chia đều cho các nước mà tập trung vào một số nước lớn, thậm chí vài ba nước “cực lớn”. Theo một số thống kê đáng tin cậy, tổng lượng truy cập Internet trên toàn cầu tập trung vào khoảng 150 công ty, chủ yếu xuất phát từ Mỹ, do Google, Yahoo, Facebook, Twitter cầm đầu.
2. Thái độ và cách ứng xử của một số nước
Trước khi “cách mạng hoa nhài” nổ ra và nhanh chóng bùng phát ở Bắc Phi, Trung Đông, trước khi bạo loạn đường phố ở Anh, phong trào “chiếm phố Wall” ở Mỹ và nhiều nước phương Tây xảy ra... ít ai nghĩ báo chí điện tử, Facebook, Twitter, các trang mạng xã hội, các công cụ cung cấp nội dung trên Internet lại có thể ảnh hưởng sâu sắc, nghiêm trọng đến an ninh, trật tự thế giới đến như vậy. Vấn đề đặt ra là, làm gì, làm như thế nào với mặt trái của báo chí điện tử, Facebook, Twitter, Google, Yahoo, các trang mạng xã hội, trang tin điện tử ?
Ở Ai Cập, khi phong trào biểu tình, bạo loạn đã lên đến đỉnh điểm (vào cuối tháng 1.2011), Tổng thống Hosni Mubarak ra lệnh chặn Facebook, cắt Internet... nhưng giải pháp đó đã quá muộn - nước đã ngập ngang đầu.
Với bản chất “không biên giới”, bên cạnh lợi thế gần như vô biên, thì những mặt trái, mặt tiêu cực của Internet cũng đặt ra yêu cầu và thách thức không nhỏ cho công tác quản lý. Một số quốc gia đã dựng lên các “biên giới ảo” trên nền Internet để kiểm soát “lãnh thổ” của mình. Chính sách quản lý Internet của Trung Quốc - nơi có gần 460 triệu người sử dụng, có thể là một sự tham khảo cần thiết. Nước này phát triển Internet, mạng xã hội, báo chí điện tử nội địa nhằm nâng cao đời sống tinh thần lành mạnh của người dân, chiếm lĩnh thị trường trong nước, tiến mạnh và cạnh tranh với bên ngoài. Họ chủ trương lập những “tường lửa”, thậm chí ngăn chặn toàn bộ các mạng xã hội bên ngoài nếu xét thấy nguy hại cho công chúng trong nước. Họ sử dụng “quyền lực thứ 5’’ này để bảo vệ và xây dựng đất nước, mà không giao nó vào tay các mạng nước ngoài.
Tại Nga, mạng xã hội chủ yếu là của các công ty trong nước. Chính phủ Nga tiếp tục kiểm soát chặt chẽ mạng xã hội từ nước ngoài. Khi đề cập đến tình hình Bắc Phi, Trung Đông, ông Andrei Grozin, Vụ trưởng Vụ Châu Á của Viện Nghiên cứu các nước Trung Á của Nga nhận xét: Ai cũng thấy rõ ràng là mô hình thay đổi chế độ ở đây đã được lập ra theo phiên bản hiện đại hóa “cách mạng màu”, một thời từng được áp dụng trong không gian hậu Xô viết. Giờ đây, dường như nó lại được lặp lại với sự trợ giúp của các công nghệ mới.
Tại Bêlarus, cơ quan cảnh sát mật KGB cũng tăng cường kiểm soát thông tin trên các trang mạng xã hội. Các quốc gia khác như: Pakixtan, Iran, Syria, Triều Tiên, Banglađet, Các tiểu vương Quốc Ả Rập thống nhất, Myanmar… đã chặn các mạng xã hội nước ngoài Facebook, Twitter… đề ra chính sách và giải pháp tăng cường kiểm soát thông tin trên mạng xã hội.
Ngay chính quyền Mỹ, một mặt, lên tiếng chỉ trích, xuyên tạc rằng Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Iran, Myanmar, Syria…“vi phạm tự do Internet”, nhưng tổ chức CIA của nước này đã thành lập một trung tâm chuyên tìm hiểu tất cả các động thái trên mạng xã hội của người dùng khắp thế giới. Chính quyền Mỹ tiếp tục hỗ trợ cho các trang mạng xã hội bằng thứ tiếng Trung Quốc, Nga, Ấn Độ (sau khi đã thực hiện rất hiệu quả các trang mạng xã hội này bằng tiếng Ả Rập, Farsi), chi ít nhất 30 triệu USD trong năm 2011 để “bảo vệ” các bloger đang bị ngăn cản, “cải thiện môi trường pháp lý” cho hoạt động truyền thông. Mặt khác, Mỹ kiên quyết ngăn cản việc bán Yahoo cho Công ty Thương mại điện tử Trung Quốc, đến mức ông Jack Ma - Chủ tịch công ty này phải thốt lên: “Vấn đề là những thương lượng của chúng tôi đang được dẫn giải từ chuyện kinh tế sang chuyện chính trị”. Hóa ra, người Mỹ cũng không thể “vô tư”, không thể trao quyền “tự do” cho Yahoo, cho Internet. Họ coi việc nắm Yahoo cũng là chuyện chính trị. Gần đây, chính quyền Mỹ cho phép có thể tấn công quân sự để trả đũa một cuộc tấn công trên mạng. Ngay thời điểm này, các nghị sĩ Mỹ đang tranh cãi về một dự luật Internet mà Tổng thống Mỹ đang rất muốn ban hành.
Dù kiểm soát hay cổ xúy cho “tự do Internet”, thì chính quyền các nước ngày càng nhận rõ sức mạnh to lớn của Internet thông qua các báo điện tử, Facebook, Twitter, các trang mạng xã hội... Thông qua các doanh nghiệp, họ đang cố kiểm soát, nắm giữ quyền lực vô biên này. Ngày càng có nhiều quốc gia ban hành những đạo luật, chế tài, can thiệp sâu và mạnh hơn vào Internet.
3. Quan điểm, giải pháp của chúng ta
Theo Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC), tính đến giữa năm 2011, Việt Nam có trên 30 triệu người sử dụng Internet, tương ứng với 32% dân số, đứng thứ tư trong khu vực Đông Nam Á, sau Singapore (75%), Malaysia (trên 62%), Brunei (trên 55%). Chỉ tính 10 năm qua, từ năm 2001 đến năm 2011, số lượng người sử dụng Internet tăng trung bình mỗi năm 12%. Trong số hơn 30 triệu người Việt Nam sử dụng Internet, có 20 triệu khách hàng của Google, 14 triệu của Yahoo, 3 triệu khách của Facebook. Riêng Facebook, dự báo số lượng truy cập sẽ tăng lên 4 triệu khách hàng vào cuối năm nay và 10 triệu khách vào năm 2012.
Cả nước hiện có trên 40 tờ báo điện tử, gần 200 trang tin của cơ quan báo chí và trên 220 trang thông tin điện tử tổng hợp. 63/63 tỉnh, thành phố, 22/22 bộ, ngành đã có cổng thông tin điện tử hoặc trang tin điện tử. Có 16 nhà đăng ký tên miền Việt Nam, 98 nhà đăng ký tên miền quốc tế và hơn 20 doanh nghiệp đang cung cấp dịch vụ hosting tại Việt Nam. Con số thống kê nêu trên cho thấy, tốc độ ứng dụng công nghệ thông tin của ta được thực hiện khá tốt, kết quả rất đáng khích lệ, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, nâng cao dân trí, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Người dùng Internet ở nước ta nhìn chung có trình độ học vấn tương đối khá, là học sinh, sinh viên, trí thức, công chức, viên chức. Ngoài nhu cầu học tập, tìm kiếm thông tin qua các báo, tạp chí và trang thông tin điện tử chính thống, người dùng máy tính còn truy cập vào các tờ báo điện tử và các trang mạng xã hội, các trang web nước ngoài, các blog, diễn đàn, Youtube (kênh video trực tuyến)...
Với báo chí điện tử trong nước, bên cạnh thế mạnh và ưu điểm cơ bản, một số báo và trang thông tin điện tử của ta còn thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng, văn hoá; xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ. Cùng với những báo, tạp chí điện tử đã được cấp phép đúng luật, xuất hiện nhiều website không phải là cơ quan báo chí nhưng hoạt động và đăng tải thông tin như một cơ quan báo chí, vi phạm Luật Báo chí và các quy định pháp luật khác.
Ở bên ngoài, lợi dụng Internet, các thế lực thù địch tiếp tục gia tăng hoạt động chống đối, xâm phạm an ninh quốc gia của ta với nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Chúng xây dựng các trang web, đặt máy chủ ở ngoài Việt Nam, đăng tải thông tin, luận điệu sai trái, kích động chống phá ta. Từ giữa 2009 đến nay, các thế lực thù địch tập trung vào hoạt động tuyên truyền phá hoại Đại hội XI của Đảng, xuyên tạc Nghị quyết và các văn kiện của Đại hội XI, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, phủ nhận thành tựu công cuộc đổi mới, kích động một số người dân biểu tình vì lý do “bảo vệ chủ quyền biển đảo’’, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Ngoài những trang web, blog, diễn đàn có nội dung phản động được đặt máy chủ ở nước ngoài, thời gian gần đây, xuất hiện một số trang web sử dụng tên miền Việt Nam (tên miền .vn) hoặc tên miền quốc tế nhưng được hosting tại Việt Nam, đăng tải tài liệu, truyện, tranh, ảnh, video clip có nội dung độc hại, đồi trụy, bạo lực, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Nhận rõ mặt mạnh, mặt tích cực và cả mặt trái của Internet, của báo chí điện tử, chỉ 8 năm sau khi Việt Nam nối mạng Internet, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã ra Chỉ thị 52-CT/TW ngày 22 tháng 7 năm 2005 “Về phát triển và quản lý báo chí điện tử ở nước ta hiện nay”. Chỉ thị 52-CT/TW nhấn mạnh vào các nhiệm vụ: “Tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tác động của mạng thông tin toàn cầu và các báo điện tử đến sản xuất và đời sống xã hội; đổi mới nội dung, phương thức chỉ đạo, quản lý của các cơ quan nhà nước đối với báo điện tử; xây dựng các tờ báo điện tử ở nước ta có kỹ thuật và công nghệ hiện đại; đúng đắn, chân thực, phong phú về nội dung, sắc bén về tính định hướng, tính chiến đấu; có tính văn hóa, tính nghiệp vụ cao; thực sự là vũ khí chính trị tư tưởng quan trọng, sắc bén của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể; phục vụ đắc lực sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Báo điện tử ở nước ta phải được phát triển nhanh, vững chắc, có hiệu quả, phù hợp với điều kiện cụ thể về kinh tế, kỹ thuật, con người, năng lực quản lý; bảo đảm an ninh, an toàn, kết hợp hài hoà với việc phát triển các loại hình báo chí và các phương tiện thông tin khác”.
Chỉ thị 52-CT/TW của Ban Bí thư cũng xác định các giải pháp chủ yếu như: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thanh niên, thiếu niên về vị trí, tầm quan trọng và tính hai mặt của Internet và báo điện tử để khai thác, sử dụng có hiệu quả mặt tích cực, đồng thời phòng ngừa, hạn chế mặt tiêu cực; tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với báo điện tử và các mạng thông tin điện tử; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật, các cơ chế, chính sách phát triển, quản lý báo điện tử và mạng Internet; nâng cao năng lực quản lý báo điện tử của các cơ quan chủ quản báo chí, các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương; phân định rõ báo điện tử và trang tin điện tử, chấn chỉnh tình trạng các trang thông tin điện tử hoạt động như một tờ báo điện tử; kiên quyết khắc phục hoạt động dịch vụ Internet trái phép, ngăn chặn các trang điện tử phản động, đồi trụy, xâm phạm đời tư, làm tha hóa đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục; phòng chống các hoạt động lừa đảo, phá hoại kinh tế trên mạng thông tin điện tử”.
Thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng, nhất là Chỉ thị 52-CT/TW của Ban Bí thư, Chính phủ đã xây dựng và ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như: Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28.8.2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet; Nghị định số 28/2009/NĐ-CP ngày 20.3.2009 quy định xử phạt hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet; Thông tư số 07/2008/TT-BTTTT ngày 18.12.2008 hướng dẫn một số nội dung về hoạt động cung cấp thông tin trên trang điện tử cá nhân trong Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28.8.2008 của Chính phủ.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách thẳng thắn thì hiện nay, chúng ta chưa kiểm soát hiệu quả các sản phẩm, website của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Điều này không nên để tiếp tục diễn ra, vì các sản phẩm - dù có nguồn gốc từ bất kỳ quốc gia nào, khi phát hành ở Việt Nam, không thể không tuân thủ luật pháp Việt Nam. Nghiêm trọng hơn, ở góc độ văn hóa, tư tưởng, điều này đã tạo ra những khoảng trống để các thế lực phản động lợi dụng đưa thông tin xuyên tạc, kích động, phá hoại ta, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh tư tưởng, văn hóa của ta, tác động xấu đến đông đảo công chúng, nhất là giới trẻ.
Việc sử dụng các trang mạng xã hội, báo chí, các loại hình thông tin khác trên Internet là một xu thế không thể phủ nhận. Hiện nay, các phương tiện truyền thông trên Internet tại Việt Nam đang là thị trường hấp dẫn ở nhiều góc độ của các thế lực, các doanh nghiệp nước ngoài. Nhưng điều đáng lo ngại là càng ngày, phía nước ngoài càng tăng cường chi phối, tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực này.
Chúng ta không ngăn cấm mạng Internet tại Việt Nam. Số lượng người truy cập và tốc độ tăng trưởng hàng năm đã minh chứng sinh động cho điều vừa nói. Tuy nhiên, cần phải xử lý kiên quyết một số mạng xã hội, một số website, blog vi phạm pháp luật, vi phạm chuẩn mực văn hóa, thuần phong mỹ tục của đất nước, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, nhất là các quy định đối với doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh lĩnh vực Internet, viễn thông, báo chí, phát thanh, truyền hình tại Việt Nam. Đồng thời, cần tăng cường công tác chỉ đạo, quản lý báo chí, nhất là báo chí điện tử, trang tin điện tử và mạng xã hội trên Internet; quản lý tốt hơn việc xã hội hóa sản xuất hoặc liên kết sản xuất, truyền dẫn, phát sóng các chương trình phát thanh, truyền hình; hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước phát triển, thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng dịch vụ công nghệ thông tin, tạo ra những “đơn vị tiên phong” đủ mạnh để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Mặt khác, chúng ta cũng cần có biện pháp và hành động kiên quyết nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của Internet đối với đời sống xã hội; tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm những hành vi sử dụng Internet, mạng xã hội, các trang thông tin điện tử có tên miền Việt Nam hoặc tên miền quốc tế nhưng thuê máy chủ trong nước để đăng tải tài liệu, truyện, tranh, phim, ảnh có nội dung xấu, chống đối chế độ, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Việc ngăn chặn tác động xấu và yêu cầu các sản phẩm nước ngoài tuân thủ nghiêm ngặt quy định luật pháp Việt Nam trên môi trường Internet cần được tiến hành bằng cả giải pháp quản lý và giải pháp kỹ thuật một cách nghiêm túc. Các doanh nghiệp trong nước truyền dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp sản phẩm nội dung trên Internet vi phạm pháp luật cũng cần có chế tài xử phạt thích đáng.
Lĩnh vực nội dung trên mạng Internet ngày càng phát triển tạo cho mặt trận tư tưởng, văn hóa của ta rộng mở, nhưng cũng phức tạp hơn nhiều so với trước. Đã có nhiều quốc gia mất đi sự tự chủ, thậm chí, là độc lập, tự do dân tộc khi để vũ khí tư tưởng tuột dần vào tay các thế lực cơ hội, phản động, thù địch.
Hơn bao giờ hết, những bài học trên thế giới yêu cầu chúng ta cần phải hành động ngay, nhanh chóng và quyết liệt. Sự tác động đến văn hóa - tư tưởng là sự tác động sâu sắc nhất đến thế hệ trẻ, là sự tác động có tính chất sống còn với vận mệnh quốc gia.
Nguồn: Tuyển tập các bài báo khoa học Tạp chí LLCTTT (1994-2014)
Bài liên quan
- Điều kiện tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên hiện nay
- Cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn về liên kết xuất bản ở Việt Nam hiện nay
- Liên kết phát hành trực tuyến - Lối đi riêng cho các nhà xuất bản trong kỷ nguyên số
- Thị trường xuất bản phẩm Việt Nam - Thực trạng và xu hướng
- Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên hiện nay
Xem nhiều
-
1
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
2
Ứng dụng câu lệnh điều khiển AI trong hoạt động giảng dạy của giảng viên: Thực trạng và giải pháp
-
3
Tương tác của công chúng trên Báo điện tử VnExpress.net hiện nay, thực trạng và một số giải pháp
-
4
Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
-
5
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
-
6
Giáo dục liêm chính cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Vai trò của lòng biết ơn trong truyền thông giáo dục tại các trường học: Từ góc độ lý thuyết
Bài viết phân tích vai trò của lòng biết ơn trong việc nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục thông qua cải thiện mối quan hệ giữa các bên liên quan. Khác biệt với những yếu tố tâm lý truyền thống như sự hài lòng hay lòng tin, lòng biết ơn sở hữu đặc tính độc đáo là khả năng thúc đẩy hành vi đáp lại tích cực từ người nhận. Trong bối cảnh giáo dục, lòng biết ơn đóng vai trò như chất xúc tác mạnh mẽ giúp biến đổi những mối quan hệ giao dịch thông thường thành các mối quan hệ cộng đồng bền vững. Không những vậy, truyền thông giáo dục với những đặc trưng riêng biệt đã một lần nữa cho thấy vai trò quan trọng của lòng biết ơn thông qua việc giúp tăng cường cảm giác gắn kết với nhà trường, khuyến khích hành vi đáp lại từ phụ huynh, và tạo ra hiệu ứng lan tỏa trong toàn bộ cộng đồng học đường.
Điều kiện tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên hiện nay
Điều kiện tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên hiện nay
Điều kiện tiếp nhận thông tin báo chí có tác động sâu sắc đến chất lượng tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên. Dựa trên số liệu khảo sát được triển khai từ tháng 3/2025 đến tháng 6/2025 về “Nhu cầu và điều kiện tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên đại học Việt Nam hiện nay”(1), bài viết phân tích những yếu tố khách quan chủ quan của sinh viên có tác động đến khả năng, hiệu quả tiếp nhận thông tin báo chí. Trên cơ sở đó, đưa ra một số gợi mở đối với các cơ quan báo chí, các trường đại học và bản thân sinh viên trong việc cải thiện những điều kiện khách quan và chủ quan, giúp sinh viên tiếp nhận thông tin báo chí một cách hiệu quả, có trách nhiệm trong bối cảnh truyền thông đa nền tảng hiện nay.
Cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn về liên kết xuất bản ở Việt Nam hiện nay
Cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn về liên kết xuất bản ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ và quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, ngành Xuất bản (XB) Việt Nam đã và đang phải đối mặt với nhiều cơ hội cũng như thách thức to lớn. Việc xã hội hóa ngành XB, đặc biệt là hình thức liên kết trong hoạt động XB, đã trở thành một chủ trương lớn, được cụ thể hóa trong các văn bản pháp quy nhằm huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế ngoài nhà nước. Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở chính trị, nền tảng pháp lý và bức tranh thực tiễn của liên kết xuất bản tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. Bài viết này tập trung trình bày cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý phân tích cụ thể các quy định pháp luật qua từng thời kỳ như Luật Xuất bản 1993, Chỉ thị số 42-CT/TW, Luật Xuất bản 2012 và Nghị định 195/2013/NĐ-CP, đồng thời đi sâu phân tích cơ sở thực tiễn liên kết xuất bản hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển ngành XB một cách bền vững.
Liên kết phát hành trực tuyến - Lối đi riêng cho các nhà xuất bản trong kỷ nguyên số
Liên kết phát hành trực tuyến - Lối đi riêng cho các nhà xuất bản trong kỷ nguyên số
Bài báo nghiên cứu khoa học này phân tích toàn diện thực trạng liên kết phát hành xuất bản phẩm (XBP) trên các sàn thương mại điện tử (TMĐT) tại Việt Nam giai đoạn 2020 đến nay. Hiện nay, các nhà xuất bản (NXB) đã tận dụng lợi thế về lưu lượng truy cập và logistics của các đối tác liên kết (ĐTLK) như Shopee và Tiki để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD), nhưng sự tham gia vào TMĐT lại bộc lộ không ít thách thức với các NXB, bao gồm nạn sách lậu (sách vật lý và sách số hóa trái phép) tràn lan trên sàn, phá vỡ kế hoạch phát hành chính thống, cùng với việc NXB mất kiểm soát về giá bán lẻ và đặc biệt là tình trạng NXB thiếu dữ liệu khách hàng do phụ thuộc vào ĐTLK. Chính vì lý do trên, bài nghiên cứu khẳng định “lối đi riêng” mang tính quyết định cho các NXB trong kỷ nguyên số chính là chiến lược chuyển đổi sang mô hình bán hàng trực tiếp đến khách hàng (D2C - Direct to Customer), lấy dữ liệu khách hàng làm trung tâm. Từ đó, đề xuất một số giải pháp phát triển mô hình hoạt động kinh doanh, năng lực công nghệ và khả năng kiểm soát bản quyền/thị trường của các NXB để họ có thể tự chủ và thành công trong môi trường số hóa (thông qua chiến lược D2C lấy dữ liệu khách hàng làm trung tâm).
Thị trường xuất bản phẩm Việt Nam - Thực trạng và xu hướng
Thị trường xuất bản phẩm Việt Nam - Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số, ngành xuất bản đứng trước nhiều biến động sâu sắc. Xu hướng dịch chuyển từ xuất bản phẩm in sang xuất bản phẩm điện tử, sự bùng nổ của thương mại điện tử cùng sự thay đổi hành vi tiêu dùng văn hóa của độc giả đã và đang định hình lại cấu trúc thị trường xuất bản phẩm. Điều này vừa mở ra cơ hội to lớn cho sự phát triển, vừa đặt ra thách thức không nhỏ về năng lực cạnh tranh, bảo hộ bản quyền, chất lượng nội dung và khả năng thích ứng công nghệ. Trên tinh thần đó, bài viết phân tích thực trạng và dự báo xu hướng phát triển thị trường xuất bản phẩm Việt Nam, góp phần hoạch định chính sách và chiến lược thị trường xuất bản phẩm trong bối cảnh mới.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận