Cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh đồng bằng sông Hồng với việc thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng
Công tác lãnh đạo thực chất là hoạt động thuyết phục, động viên, tập hợp cán bộ cấp dưới và quần chúng nhân dân - với tư cách là đối tượng lãnh đạo, tin tưởng và làm theo đường lối, chủ trương do người lãnh đạo - với tư cách là chủ thể lãnh đạo đề ra.
Bởi thế, nâng cao năng lực thuyết phục, tập hợp, động viên cán bộ cấp dưới và quần chúng của người lãnh đạo là nhiệm vụ thường xuyên không thể thiếu được của người lãnh đạo nói chung, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nói riêng.
Để thuyết phục được cán bộ cấp dưới và quần chúng, trước hết người cán bộ lãnh đạo phải có đạo đức cách mạng; phải gương mẫu, liêm khiết chí công vô tư. Cùng với phẩm chất đạo đức cách mạng, người cán bộ lãnh đạo phải hiểu biết sâu sắc, hiểu đúng, làm đúng đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Từ đó thuyết phục cán bộ cấp dưới và quần chúng nhân dân bằng các hình thức tuyên truyền sinh động, khơi dậy được ở họ lòng nhiệt tình hăng hái tự giác chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết, chính sách của tỉnh. Để làm được việc đó, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh không những phải gương mẫu mà còn phải có năng lực tư duy lý luận nhất định. Bởi lẽ, đường lối, chủ trương của Đảng có đi vào cuộc sống để phát huy tác dụng hay không là do nó có phù hợp với thực tiễn không, nó có được tuyên truyền sâu rộng, kiên trì trong nhân dân không và đặc biệt là có được bổ sung hoàn chỉnh kịp thời hay không?... Tất cả những đòi hỏi ấy đều được quyết định bởi năng lực và phẩm chất lãnh đạo của người cán bộ. Chẳng hạn từ chủ trương, đường lối của Đảng, đội ngũ cán bộ lãnh đạo của tỉnh Vĩnh Phúc đã đề ra được chương trình phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với thực tiễn địa phương và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Vì vậy đã đạt được kết quả to lớn: kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân 14,4% năm (cao nhất khu vực đồng bằng sông Hồng). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ giảm tỷ trọng nông nghiệp. Hiện nay tỉnh có cơ cấu kinh tế: công nghiệp - xây dựng 50,44%, dịch vụ 28,23%, nông nghiệp 21,33%. GDP bình quân đầu người đạt 520 USD/năm. Từ phần lớn chi ngân sách phải dựa vào điều tiết của Trung ương, từ năm 2004, tỉnh đã cân đối được thu chi ngân sách và đã có đóng góp cho ngân sách của Trung ương. Những con số ấn tượng trên đây đã phác họa một Vĩnh Phúc phát triển trên đường đổi mới. Nó càng có ý nghĩa nếu biết rằng cách đây gần 10 năm, lúc mới tái lập tỉnh, Vĩnh Phúc còn là một tỉnh thuần nông, kinh tế - xã hội được xếp loại yếu. Có được thành quả đó là do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân quan trọng là đội ngũ cán bộ lãnh đạo tỉnh có phẩm chất đạo đức, dám nghĩ, dám làm, có phong cách làm việc dân chủ, sát dân, biết cụ thể hoá đường lối của Đảng phù hợp với điều kiện của tỉnh do đó đã thu hút được ngoại lực, thuyết phục, tập hợp, động viên nội lực trong quần chúng nhân dân tạo sức mạnh phát triển địa phương.
Thực tế cho thấy, ở đâu cán bộ lãnh đạo tập hợp, thuyết phục, động viên được cán bộ cấp dưới và quần chúng nhân dân thì ở đó phong trào phát triển mạnh. Muốn vậy, người cán bộ lãnh đạo phải thực sự gương mẫu trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tránh tình trạng nói một đằng làm một nẻo, hoặc chỉ nói mà không làm. Đồng thời người cán bộ lãnh đạo phải hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân, phải gần dân, không quan liêu, phải có phong cách làm việc dân chủ, sát dân. Cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh phải có tầm tư duy khái quát nhưng không có nghĩa là xa rời thực tiễn của địa phương mình. Các quyết định phải được ra đời từ nhiệt tình, tâm huyết, từ thực tiễn ở địa phương trên cơ sở tư duy lý luận chứ không phải dựa vào những báo cáo của cán bộ cấp huyện hay cấp cơ sở mà thiếu sự kiểm tra, sâu sát của cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh. Hồ Chủ tịch đã viết: "Lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào? Cố nhiên không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh"(1).
Thực tế cho thấy, các tỉnh đồng bằng sông Hồng có mức thu hút đầu tư không đồng đều. Vĩnh Phúc là tỉnh có vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trên địa bàn đạt cao, kết cấu hạ tầng được tăng cường. Nhưng điều thành công nhất phải kể đến là công tác bồi thường giải phóng mặt bằng được triển khai tích cực. Toàn tỉnh đã bồi thường, giải phóng mặt bằng được hơn 2000 ha đất phục vụ cho phát triển công nghiệp, dịch vụ và xây dựng kết cấu hạ tầng; hình thành thêm được 11 khu công nghiệp, cụm công nghiệp với tổng diện tích hơn 2644 ha. Trong 139 dự án đã đi vào hoạt động, hầu hết đạt hiệu quả, góp phần quyết định gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị kim ngạch xuất khẩu, tổng thu ngân sách trên địa bàn và giải quyết việc làm cho hàng chục nghìn lao động (2). Có thể nói, Vĩnh Phúc đã bước đầu thành công trong việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội. Bởi vì ở cùng hoàn cảnh như Vĩnh Phúc, các tỉnh khác trong vùng lại giải quyết vấn đề này ít thành công, gây tình trạng khiếu kiện kéo dài thậm chí còn hình thành các điểm nóng như ở Hà Tây, Nam Định, Hải Phòng... Hay ở Hải Dương, kinh tế nông thôn có nhiều thay đổi tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết cấu hạ tầng được xây dựng ngày càng đồng bộ. Phong trào làm đường giao thông nông thôn phát triển mạnh. Hệ thống thuỷ lợi từng bước được kiên cố hoá. Lưới điện được nâng cấp, mô hình tổ chức và quản lý điện nông thôn được thực hiện có hiệu quả; 97% số xã có giá bán điện bằng và thấp hơn mức giá trần do Nhà nước quy định... Cơ giới hoá 62% khâu làm đất, 99% khâu xay sát, 95% khâu tuốt lúa, 50 % khâu vận tải, 80% tưới tiêu...(3). Những việc làm thiết thực đó để công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn giúp người dân thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu là giải pháp tốt nhất để thuyết phục, tập hợp, động viên quần chúng. Nghĩa là bằng sự phát triển kinh tế - xã hội, bằng việc cụ thể hoá chủ trương công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển bền vững là những biện pháp quan trọng để thuyết phục, tập hợp động viên quần chúng.
Chủ trương đúng, bước đi phù hợp là bài học thực tế để cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh thuyết phục, tập hợp, động viên được quần chúng nhân dân. Như vậy, cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh phải có năng lực tư duy lý luận ở trình độ nhất định và phải biết vận dụng năng lực tư duy lý luận vào thuyết phục, tập hợp động viên quần chúng trong tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Nhân dân ta nói chung, nhân dân các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ nói riêng có truyền thống yêu nước và cần cù lao động. Trải qua bao đời bên luỹ tre làng thân thương họ sống một cuộc sống chịu thương, chịu khó với tinh thần nhường cơm sẻ áo, đồng cam cộng khổ, xây dựng tình làng nghĩa xóm giúp nhau vượt qua bao khó khăn thử thách. Trong công cuộc đổi mới, nhân dân tin tưởng và tích cực chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới là thay đổi cách nghĩ, cách làm phù hợp với điều kiện khách quan và chủ quan để phát triển nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cho nên, cần cù, chịu khó là điều kiện cần nhưng chưa đủ mà còn phải biết đưa khoa học công nghệ vào sản xuất, biết đi tắt đón đầu trong sản xuất, thích ứng với cơ chế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện toàn cầu hoá... Trong điều kiện đó, cán bộ lãnh đạo không thể dùng mệnh lệnh hành chính bắt nhân dân trồng cây gì, nuôi con gì, sản xuất sản phẩm công nghiệp gì được mà phải bằng lý lẽ thuyết phục, bằng tấm gương của bản thân và đặc biệt là bằng chính sách kinh tế, hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội để thuyết phục nhân dân tin tưởng, tự giác làm theo. Muốn vậy, người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh phải nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và am hiểu sâu sắc tình hình địa phương, phong tục, tập quán, thói quen... của quần chúng nhân dân, gương mẫu, có phẩm chất đạo đức trên cơ sở đó mới lôi cuốn, thuyết phục, tập hợp, động viên được quần chúng nhân dân.
Cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh vừa phải có tầm nhìn bao quát toàn cục cả nước, cả vùng, cả tỉnh lại phải có sự hiểu biết tường tận địa bàn nơi sẽ áp dụng những chủ trương, chính sách của tỉnh vào đó. Bởi những quyết định của cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh có ảnh hưởng trực tiếp, hoặc gián tiếp đến hàng triệu con người. Song, như thế chưa đủ, muốn thuyết phục, tập hợp, động viên quần chúng, cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là cán bộ chủ chốt cấp tỉnh phải là những người có phẩm chất cách mạng trong sáng, là tấm gương về đạo đức để mọi người tin tưởng, thừa nhận. Hồ Chủ tịch đã căn dặn, đạo đức là cái gốc của người cán bộ. Người cán bộ nếu không có đạo đức, không biết đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân thì không thể tập hợp, thuyết phục được quần chúng nhân dân. Mặt khác, người cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên khơi dậy được những phẩm chất đẹp đẽ trong truyền thống của dân tộc ta như lòng nhân ái, đức tính cần cù chịu khó, lòng tự tôn dân tộc, ý chí tự lập tự cường trong quần chúng nhân dân để tạo thành sức mạnh tổng hợp mới thì mới có thể phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Hiện nay, tệ quan liêu, cửa quyền và nạn tham nhũng, lối sống xa hoa, thực dụng của một bộ phận cán bộ lãnh đạo các cấp đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Nhiều người cho rằng, đây là hiện tượng phổ biến của thế giới vì đã là Nhà nước thì có quan liêu, có đặc quyền đặc lợi. Đây là những ý kiến hết sức sai trái, biện hộ cho lối sống phi đạo đức, khác xa với truyền thống đạo đức của dân tộc, thực chất là vi phạm điều lệ Đảng, những người không thể lãnh đạo cách mạng đi đúng mục tiêu mà trải bao hy sinh gian khổ chúng ta mới đạt được. Tất nhiên, những cán bộ lãnh đạo này không thể giáo dục, thuyết phục, tập hợp, động viên được quần chúng nhân dân.
Vì lẽ đó, xây dựng chỉnh đốn Đảng chẳng những là đòi hỏi của việc xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh mà còn là đòi hỏi, mong mỏi của toàn thể nhân dân, của yêu cầu giáo dục, thuyết phục, tập hợp, động viên quần chúng. Từ Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII đến nay công tác chỉnh đốn Đảng đã ngày càng lấy lại lòng tin của nhân dân đối với Đảng và cán bộ. Công tác kiểm tra đảng được chú trọng, xử lý kỷ luật nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm khuyết điểm, giải quyết kịp thời các đơn thư tố cáo có liên quan đến nhân sự tham gia ứng cử, bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ vừa qua.
Thực tiễn đang đòi hỏi, yêu cầu người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh phải trau dồi năng lực thuyết phục, tập hợp, động viên quần chúng trong điều kiện mới với hình thức và bước đi mới phù hợp nhằm khơi dậy, phát huy sức mạnh của quần chúng trong phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Muốn làm được điều đó, người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh phải không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, phong cách làm việc dân chủ, sát dân và nâng cao năng lực tư duy lý luận.
__________________________
(1) Hồ Chí Minh (2000), toàn tập, Nxb CTQG, T.5, tr.285.
(2) (3) Dự thảo Báo cáo Chính trị các tỉnh đảng bộ đồng bằng sông Hồng.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 6 (tháng 11+12).2005
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 2 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 3 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 4 Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- 5 Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- 6 Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Xây dựng phẩm chất nghề nghiệp người làm báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà báo vĩ đại, tấm gương sáng ngời để chúng ta thường xuyên học tập và noi theo. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ truyền thông, báo mạng điện tử ngày càng phát triển mạnh mẽ, báo chí truyền thống đứng trước cơ hội và thách lớn. Báo chí nước ta là vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bài viết sau đây trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng phẩm chất nghề nghiệp người làm báo trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đồng thời hưởng ứng cuộc vận động “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”, góp phần xây dựng nền báo chí Việt Nam chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại theo chủ trương của Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận và báo chí của Đảng, đáp ứng yêu cầu cấp bách và có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận