Đảng Cộng sản Việt Nam với quá trình đổi mới nhận thức, từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình liên tục, được thể hiện sinh động và rõ nét qua từng văn kiện Đại hội và Hội nghị của Đảng sau khi đất nước thống nhất (1975) và đặc biệt là sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12.1986).
Trước khi tiến hành công cuộc đổi mới, mục tiêu của cải tạo kinh tế đã được chúng ta xác định là đưa các thành phần kinh tế phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế xã hội với hai hình thức chủ yếu là quốc doanh và tập thể nhanh chóng chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân. Song, trong quá trình cải tạo, do chủ quan, duy ý chí, nóng vội muốn làm nhanh, tiến nhanh, chúng ta đã vội vàng xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghã. Khuyết điểm này bắt nguồn từ nhận thức chưa đầy đủ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; ảnh hưởng của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xôviết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp; không thấy rõ tính chất phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường, nhiều bước đi của thời kỳ quá độ; không thấy rõ nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ, do đó đã nhanh chóng biến nền kinh tế quốc dân thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập thể. Chúng ta đã tiến hành xoá bỏ các thành phần kinh tế được thực hiện từ những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đối với miền Nam thì cho đến tháng 9.1975, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 24 (khoá III), Đảng ta vẫn chủ trương: “Trong một thời gian nhất định, ở miền Nam còn nhiều thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa, kinh tế tập thể xã hội chủ nghĩa, kinh tế công tư hợp doanh nửa xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư bản tư doanh; cần ra sức sử dụng mọi khả năng lao động, kỹ thuật, tiền vốn, kinh nghiệm quản lý, để đẩy mạnh sản xuất”(1). Tư tưởng chủ quan, nóng vội ấy còn xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó chúng ta đã vi phạm nghiêm trọng quy luật khách quan vốn có, như trong Văn kiện Đại hội VI Đảng ta đã nêu rõ. Cơ chế quản lý hành chính tập trung, quan liêu, bao cấp chi phối trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân đã bộc lộ những hạn chế, kìm hãm sự phát triển của đất nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Với nhận thức sai lầm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội nên mọi sự tìm tòi, cải tiến hình thức, nội dung quản lý đều không vượt khỏi khuôn khổ của cơ chế chung. Vì vậy, việc xây dựng nền kinh tế thị trường, việc cải tiến quản lý kinh tế trải qua nhiều hình thức, nhiều sự khảo nghiệm vẫn không mang lại kết quả như mong muốn. Tuy nhiên cũng cần phải thấy một thực tế rằng 10 năm (1975 - 1985) là một quá trình tìm tòi khảo nghiệm liên tục và cuối cùng đã tìm ra phương hướng đổi mới đúng đắn. Tín hiệu đổi mới bắt đầu từ Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành (khoá IV) tháng 8.1979. Đứng trước những khó khăn gay gắt của đời sống kinh tế - xã hội sau khi đất nước thống nhất, sản xuất trong hầu hết các ngành đều đình đốn, đời sống nhân dân, cán bộ, lực lượng vũ trang quá khó khăn, yêu cầu phải có những giải pháp cấp bách đề xoay chuyển tình thế, Hội nghị đã thông qua hai Nghị quyết: Nghị quyết số 20-NQ/TW về Tình hình và nhiệm vụ cấp bách, Nghị quyết số 21-NQ/TW về Phương hướng nhiệm vụ phát triển hàng công nghiệp tiêu dùng và công nghiệp địa phương. Nội dung cơ bản của hai nghị quyết trên là coi việc đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp nhằm bảo đảm vững chắc lương thực, thực phẩm và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp là “nhiệm vụ trọng tâm nhất”. Đồng thời, ban hành ngay chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp: ổn định mức bán nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần còn lại bán cho Nhà nước theo giá thoả thuận và lưu thông tự do, khuyến khích tập thể và gia đình xã viên khai hoang, phục hoá, đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ. Kết hợp kế hoạch với thị trường, khẳng định sự cần thiết phải tồn tại thị trường tự do, khuyến khích sản xuất “bung ra” đúng hướng. ở miền Nam tồn tại 5 thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể và tư bản tư nhân.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khoá IV) đã nhanh chóng được nhân dân cả nước phấn khởi đón nhận. Từ những quan điểm cơ bản của Nghị quyết, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, thể chế mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá. Những chính sách tiêu biểu như: Chỉ thị 357 của Chính phủ (3.10.1979) cho phép nông dân được nuôi và mua bán trâu, bò và trâu, bò được coi là hàng hoá; Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư (13.1.1981) về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”; Quyết định số 25/CP (21.1.1981) của Hội đồng Chính phủ “Về một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất - kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh”. Từ đó, trong nền kinh tế nước ta xuất hiện tình huống tồn tại song trùng hai cơ chế quản lý: cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và cơ chế tự do (có thể coi như thị trường sơ khai). Cũng từ đó bắt đầu một cuộc đấu tranh cọ xát quyết liệt diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực giữa hai cơ chế theo xu hướng xoá bỏ từng bước cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xác lập cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Trên thực tế nền kinh tế nước ta, từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IV, các quan hệ hàng hoá - tiền tệ được chấp nhận như một tất yếu khách quan, nhưng ở mức độ coi như mặt thứ yếu, bổ sung cho hệ thống kế hoạch pháp lệnh tập trung. Nhưng, chính từ sự chấp nhận đó đã thúc đẩy phát triển quan hệ hàng hoá - tiền tệ; đồng thời, đây được coi như là quá trình thử nghiệm đổi mới và từng bước tổng kết, so sánh, chọn lựa, trong đó có cuộc đấu tranh khá gay gắt về tư tưởng, lý luận và chính sách. Chính từ thực tiễn tìm tòi, thử nghiệm đó mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12.1986) đã đi tới bước đổi mới căn bản, xem quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá như bộ phận hữu cơ của quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết chặng đường cả nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn những quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, xuất phát từ tình hình kinh tế - xã hội, từ nguyện vọng chính đáng của nhân dân, từ những sáng kiến mang tính chất “phá rào” của một số địa phương, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã nhận thức lại: “đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”(2). Từ đó, Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh, sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, coi đó là tất yếu khách quan, gắn sản xuất với thị trường. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp, coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Việc cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế với quy mô và trình độ kỹ thuật thích hợp là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng và khai thác mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Đó “là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”(3). Đại hội VI xác định rõ các thành phần kinh tế ở nước ta bao gồm: kinh tế xã hội chủ nghĩa (gồm có khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế tập thể); kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi khác.
Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước ngoặt cách mạng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là bước tiến quan trọng trong việc đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta. Tuy vậy, về đổi mới nền kinh tế nói chung và đổi mới nhận thức đối với kinh tế thị trường nói riêng, tại Đại hội VI, mặc dù đã sử dụng thuật ngữ “thị trường” song trong các văn kiện, Đảng ta vẫn chưa sử dụng khái niệm “kinh tế thị trường” và “cơ chế thị trường” như hiện nay chúng ta đang sử dụng. Đến tháng 3.1989, khi tổng kết hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khoá VI) đã khẳng định: cả nước là một thị trường thống nhất, có nhiều lực lượng thuộc các thành phần kinh tế cùng tham gia, thực hiện cơ chế giá thoả thuận, giá kinh doanh. Nhà nước bỏ quyền định giá, giữ giá bằng những biện pháp hành chính, mà thực hiện sự điều tiết bằng những biện pháp và công cụ kinh tế là chủ yếu. Như vậy, Hội nghị Trung ương 6 đã phát triển thêm một bước trong việc đổi mới nền kinh tế, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, “coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Tổng kết một chặng đường đổi mới, trên cơ sở nhận thức sâu sắc hơn về tình hình đất nước, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6.1991), Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu lên những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội đang được xây dựng ở Việt Nam, tiếp tục nói rõ hơn chủ trương đổi mới nền kinh tế “nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”(4). Đồng thời, Đảng ta nhấn mạnh “Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất trong xã hội”(5).
Trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Đảng ta đã cụ thể hoá quan niệm về kinh tế thị trường và cho rằng, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, “thị trường hoàn chỉnh” ở nước ta sẽ dần hình thành, bao gồm cả thị trường sức lao động, thị trường vốn và tiền tệ. Đó sẽ là thị trường “thông suốt trong cả nước với thị trường thế giới”.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1.1994) đã tiếp tục phát triển, cụ thể hoá các quan điểm và tư tưởng của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị chỉ rõ: “Xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế mới, kiên trì quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước”. Những giải pháp thiết thực mà Hội nghị chỉ ra đã đẩy nhanh việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, tạo động lực và môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động, các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh và có hiệu quả, góp phần xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6.1996), trên cơ sở tổng kết toàn diện những thành công và những tồn tại, những bài học chủ yếu của công cuộc đổi mới, kế thừa những đường lối, chủ trương đúng đắn về việc sử dụng kinh tế thị trường do các Đại hội trước đề ra, Đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò của kinh tế thị trường: “Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội”(6). Trên cơ sở đó, Đảng ta xác định: “Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(7). Đồng thời, Đại hội VIII của Đảng đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”(8). Tuy nhiên, cho đến Đại hội VIII, Đảng ta mới nói đến nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”.
Như vậy, phải trải qua một quá trình đổi mới nhất định, những quan niệm về vai trò của kinh tế thị trường mới có cơ sở thực tiễn để được khẳng định. Kinh tế thị trường không đồng nhất với kinh tế tư bản chủ nghĩa, không phải là thành quả riêng của chủ nghĩa tư bản. Việc chuyển nền kinh tế đất nước sang vận hành theo cơ chế thị trường không đơn thuần chỉ là quá trình cấu trúc lại nền sản xuất xã hội với sự đổi mới cơ cấu sở hữu tư liệu sản xuất, cơ cấu sử dụng nhân lực, lao động mà đó là một quá trình đổi mới toàn diện, nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế như cơ chế quản lý kinh tế và quản lý xã hội, hệ thống giáo dục và đào tạo cán bộ, các thiết chế và các chính sách xã hội cho phù hợp với yêu cầu của công cuộc xây dựng kinh tế trong nước và sự cạnh tranh kinh tế ngày càng gay gắt trên bình diện quốc tế.
Nhận thức được tính tất yếu và tầm quan trọng của nền kinh tế thị trường, tiếp tục cụ thể hoá chủ trương đổi mới kinh tế của Đảng, sau 10 năm đầu đổi mới, nước ta đã giành được những thành tựu to lớn có tính chất chiến lược về kinh tế, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không ngừng có những bước phát triển, quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành, ngày càng phát huy tác dụng, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (4.2001) đã tổng kết 15 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và 5 năm đất nước tiến hành sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội VIII, đất nước đã có những chuyển biến căn bản, đặc biệt trong bối cảnh các nước trong khu vực và thế giới có những khó khăn nhất định do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, Việt Nam vẫn giữ được mức độ tăng trưởng kinh tế khá và ổn định. Chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và về mô hình xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang nỗ lực xây dựng, trong đó động lực quan trọng để thúc đẩy đất nước phát triển là việc lựa chọn đúng đắn định hướng phát triển nền kinh tế thị trường. Trên cơ sở những thành tựu đạt được, một lần nữa cho phép Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(9). Và như vậy, đến Đại hội IX của Đảng mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời, Đại hội nhấn mạnh: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Việc đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã đánh dấu một bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng. Nó thể hiện thái độ rõ ràng, dứt khoát của Đảng trong việc từ bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, trong việc chấp nhận kinh tế thị trường, trong việc thừa nhận chủ nghĩa xã hội có thể dung hợp với kinh tế thị trường, có thể sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với quan điểm mới của Đảng về nền kinh tế thị trường sau hơn 15 năm đổi mới đất nước, có thể nhận thấy rằng quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là kết quả của một quá trình đổi mới tư duy, vận dụng lý luận, tổng kết thực tiễn; là quá trình tìm tòi, thử nghiệm, trăn trở, đấu tranh tư tưởng - lý luận trong Đảng và ngoài xã hội. Thực tiễn đã khẳng định và chứng minh đây là một bước đột phá có tính sáng tạo và cách mạng trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội. Tư duy sáng tạo và cách mạng ấy đã và đang được Đảng ta tiếp tục phát triển trong quá trình lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, tiến tới chuẩn bị những bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ở Đại hội X sắp tới.
_________________________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, 2004, Nxb CTQG, H., 2004, T.36, tr.408.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H., 1987, tr.58.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H., 1987, tr. 56.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 1991, Nxb Sự thật, H., tr. 9-10.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, 1991, Nxb Sự thật, H., tr.55.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, 1996, Nxb CTQG, H., tr. 26.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr. 82.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr. 97.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, 2001, Nxb CTQG, H., tr. 86.
Nguồn: Bài đăng Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 6 (tháng 11+12)/2005
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 3 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
Trong bối cảnh du lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, việc phát triển du lịch bền vững tại Khánh Hòa đòi hỏi sự tham gia chủ động của cả chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng địa phương (CĐĐP). Quản trị truyền thông không chỉ góp phần xây dựng hình ảnh Khánh Hòa là một điểm đến bền vững, mà còn trở thành công cụ quan trọng trong việc kết nối các bên liên quan, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường và bảo tồn văn hóa bản địa. Bài báo khoa học này tập trung hệ thống hóa và đánh giá tiềm năng du lịch cộng đồng (DLCĐ) tại tỉnh Khánh Hòa, đồng thời đề xuất các giải pháp quản trị truyền thông hiệu quả nhằm phát triển DLCĐ một cách đồng bộ, giúp du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và đúng định hướng chiến lược, trong đó DLCĐ đóng vai trò cốt lõi. Kết quả nghiên cứu được thu thập thông qua các phương pháp như: phỏng vấn sâu; phương pháp khảo sát; phân tích, tổng hợp và so sánh dữ liệu; xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS.22.0.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận