Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
1. Vai trò quan trọng của Mặt trận trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Vai trò thiết yếu của Mặt trận trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Một là, Mặt trận là cơ sở chính trị, cơ sở xã hội của Nhà nước pháp quyền. Về mặt lý luận, liên minh mọi giai cấp, tầng lớp là một trong những vấn đề sống còn của cách mạng và của chế độ chính trị XHCN theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Một dân tộc chỉ trở thành một lực lượng to lớn, vô địch khi quảng đại quần chúng nhân dân được tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, được trang bị một lý luận khoa học cách mạng, và được lãnh đạo bởi một chính đảng tiên phong. Xem xét trên khía cạnh thực tiễn, đại đoàn kết dân tộc chính là vấn đề then chốt, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt con đường cách mạng của dân tộc ta. Nhìn lại lịch sử nước nhà có thể thấy rõ sự hưng thịnh của chính quyền nhà nước luôn có sự hậu thuẫn rất lớn của khối đại đoàn kết dân tộc. Sự thất bại của các phong trào yêu nước và giải phóng dân tộc vào đầu thế kỷ XX ở nước ta một phần xuất phát từ việc chưa huy động được sức mạnh của tinh thần đoàn kết trong nhân dân. Ngược lại, sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1945) là minh chứng hùng hồn cho sức mạnh bất diệt, vô song của tình đoàn kết dân tộc, tiếp thêm sức mạnh tinh thần để dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Hai là, việc thực hiện quyền giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận là một đòi hỏi tất yếu khách quan của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ... Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy”(1). Luận điểm này cũng từng được V.I.Lênin khẳng định trong xây dựng chính quyền Xôviết: “chỉ có một chính quyền dựa một cách công nhiên và dứt khoát vào đa số nhân dân mới có thể vững chắc được”(2). Từ đó, có thể đi đến khẳng định rằng, sức mạnh của Nhà nước pháp quyền XHCN chỉ có thể có được dựa trên sức mạnh của nhân dân. Mặt trận thông qua hoạt động giám sát và phản biện xã hội đóng vai trò quan trọng, thiết yếu trong việc giám sát hoạt động của Nhà nước, khắc phục xu hướng lạm quyền, tư vấn, góp ý, phản biện những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của nhân dân, đóng góp vào quá trình cải cách và hoàn thiện bộ máy Nhà nước Việt Nam.
Ba là, Mặt trận đóng vai trò là cầu nối giữa Đảng - Nhà nước - nhân dân, là cơ sở quan trọng bảo đảm tính ổn định, thống nhất của hệ thống chính trị Việt Nam. Là những bộ phận cấu thành hệ thống chính trị XHCN Việt Nam, Đảng, Nhà nước và Mặt trận có mối quan hệ hữu cơ, hợp tác, tôn trọng lẫn nhau, phối hợp với nhau cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Trong đó, Mặt trận đóng vai trò là chiếc cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, tạo thành một khối liên kết vững chắc trong hệ thống chính trị. Nếu thiếu vắng Mặt trận thì đặc trưng của hệ thống chính trị nước ta sẽ chỉ tồn tại trên danh nghĩa, hoặc sẽ bị méo mó(3). Nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ trên, Đảng ta luôn xác định một trong những nội dung lớn của đổi mới, tăng cường hệ thống chính trị hiện nay là tăng cường mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Mặt trận; “thực hiện thành nề nếp việc Đảng và Nhà nước cùng bàn bạc và tham khảo ý kiến của Mặt trận về những quyết định, chủ trương lớn”(4).
Bốn là, vai trò thiết yếu của Mặt trận trong xây dựng chính quyền xuất phát từ tình hình thực tiễn Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Con đường đi lên CNXH là xu thế phát triển tất yếu của lịch sử loài người. Tuy là một tiến trình vận động tự nhiên, thời kỳ này chứng kiến một sự cải biến cách mạng sâu sắc từ xã hội cũ sang xã hội mới. Nói như C.Mác, đó là thời kỳ của “những cơn đau đẻ dài”(5). Ở Việt Nam, thời kỳ quá độ lên CNXH trải qua nhiều chặng đường khó khăn, phức tạp, với sự tồn tại của nhiều giai cấp, tầng lớp, nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sở hữu tương ứng với sự phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất. Tính đa dạng trong đời sống kinh tế, xã hội trước bối cảnh toàn cầu hóa đặt ra những yêu cầu mới cho công tác vận động, tập hợp và liên minh quần chúng trong và ngoài nước vì mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong khi đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang ngày đêm hiện thực hóa âm mưu chống phá Đảng, lật đổ chính quyền, cản trở con đường đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân ta đang dày công xây đắp. Một trong các âm mưu mà chúng hướng tới là làm lung lay khối đại đoàn kết dân tộc, tiến tới làm suy yếu chính quyền nhân dân, lật đổ Nhà nước pháp quyền XHCN. Chúng đưa ra những luận điệu sai trái nhằm tầm thường hóa vai trò của Mặt trận, coi Mặt trận chỉ có vai trò “vỗ tay” trong hệ thống chính trị Việt Nam; lợi dụng chiêu bài “phản biện xã hội”, “giám sát xã hội” theo kiểu vô chính phủ, vô phép tắc để chống lại những chủ trương, đường lối của Đảng ta. Thực tiễn trên cho thấy, chỉ dưới sự tập hợp và hoạt động đúng đắn của Mặt trận, toàn thể dân tộc mới thống nhất ý chí một lòng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, hoạt động phản biện, giám sát, xây dựng chính quyền mới được thực hiện trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
Với vai trò thiết yếu của Mặt trận trong hệ thống chính trị, nhiều văn bản, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã được ban hành, củng cố cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
2. Thực hiện vai trò của Mặt trận trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
a. Mặt trận Tổ quốc với vai trò đại diện cho nhân dân giám sát hoạt động của các cấp chính quyền
“Chế độ ta là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân”(6). Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng chế độ dân chủ XHCN, kiện toàn các thiết chế thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, trong đó vai trò của Mặt trận luôn được khẳng định ở vị trí trung tâm trong cơ chế thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Trong những năm qua, ủy ban Mặt trận các cấp không ngừng tập hợp ý kiến, kiến nghị, tâm tư, nguyện vọng của cử tri và nhân dân gửi đến Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước ở địa phương để xem xét, giải quyết. Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng có báo cáo định kỳ 3 tháng/lần gửi đến lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các cơ quan liên quan về tình hình các tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân cũng được Mặt trận và các đoàn thể tại các địa phương giám sát chặt chẽ như: chính sách bồi thường đất đai, giải phóng mặt bằng, công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng... Qua hoạt động giám sát xã hội, Mặt trận các cấp đã phát hiện kịp thời những sai phạm của các cơ quan nhà nước trong thi hành công vụ để báo cáo với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
b. Mặt trận Tổ quốc đại diện cho các tầng lớp nhân dân góp ý xây dựng và giám sát thực hiện Hiến pháp, pháp luật
Trong hoạt động tham gia xây dựng pháp luật, Mặt trận thông qua các Hội nghị nhân dân đã khuyến khích người dân tham gia đóng góp ý kiến sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, các văn bản luật và các văn bản dưới luật như Nghị định của Chính phủ, Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thường xuyên cử đại diện tham gia các Ban soạn thảo và Tổ biên tập các dự án luật, pháp lệnh quan trọng theo đề nghị của cơ quan chủ trì soạn thảo như: Luật Quốc tịch, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tổ chức tòa án, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo... Trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 2013, Mặt trận các cấp đã đóng góp rất lớn trong việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân tham gia góp ý xây dựng Hiến pháp. Đã có tổng số 3.181.529 lượt người tham gia ý kiến với 8.071.919 ý kiến góp ý vào hầu hết các nội dung của Dự thảo Hiến pháp(7). Từ năm 2014 đến năm 2017, Ủy ban Mặt trận các cấp ở địa phương đã tổ chức 30.661 cuộc phản biện xã hội đối với nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND tỉnh, thành phố liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân(8). Những ý kiến phản biện xã hội của Mặt trận các cấp đã trở thành một kênh thông tin quan trọng, sát thực trong quá trình làm luật, góp phần bảo đảm tính hiệu lực tối cao của pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN.
Song hành với hoạt động xây dựng pháp luật, trong những năm qua, Mặt trận cũng đã góp phần không nhỏ vào công tác tuyên truyền, phổ biến, đưa Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống. Đơn cử, Mặt trận Tổ quốc các địa phương đã tổ chức được hơn 600 nghìn hội nghị tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp năm 2013 với sự tham dự của hơn 33 triệu người(9). Qua công tác tuyên truyền, ý thức chấp hành pháp luật của các tầng lớp nhân dân đã từng bước được nâng lên, tạo cơ sở xã hội vững chắc cho Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Để xây dựng tinh thần thượng tôn pháp luật theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Mặt trận trong những năm qua đã có những đóng góp không nhỏ vào việc giám sát hoạt động thi hành công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, loại bỏ những “vùng cấm” trong tuân thủ pháp luật. Trong đó, không thể không kể đến hoạt động giám sát đối với thu nhập, tài sản và hành vi của cán bộ, công chức, viên chức theo Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17.7.2013 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập(10). Ngoài ra, Ủy ban Mặt trận các địa phương, thông qua các ban Thanh tra nhân dân (TTND), thực hiện nhiệm vụ giám sát đầu tư của cộng đồng tại nhiều địa phương nhằm bảo vệ lợi ích của cộng đồng, bảo đảm tinh thần thượng tôn của pháp luật ở từng cụm dân cư. Trong 3 năm từ 2014 - 2016, tổng số cuộc giám sát do Ban TTND thực hiện là 156.038 cuộc, tổng số kiến nghị là 35.064; giá trị tiền thu hồi đạt 156.269.121 đồng(11). Mặc dù không thể hiện tính quyền lực nhà nước, nhưng giám sát xã hội tạo ra sức mạnh dư luận to lớn, kịp thời trừng trị, răn đe, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của lực lượng thi hành công vụ, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước.
c. Mặt trận giám sát thực hiện nguyên tắc hoạt động của bộ máy Nhà nước
Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp năm 2013 quy định về nguyên tắc hoạt động và tổ chức bộ máy Nhà nước ta như sau: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Trong mối quan hệ với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội có vai trò chi phối, tác động to lớn đến việc thực hiện quyền lực nhà nước. So với các hoạt động kiểm tra, thanh tra nhà nước, giám sát xã hội có phạm vi và đối tượng rộng lớn hơn. Trong nhà nước đơn nhất dưới sự lãnh đạo của một chính đảng tiên phong, giám sát xã hội chẳng những không kiềm chế hay đối trọng với hoạt động kiểm tra, thanh tra của nhà nước mà nó còn góp phần làm phong phú các hình thức kiểm soát và tăng tính hiệu quả của kiểm soát quyền lực nhà nước(12). Thông qua Mặt trận và các thành viên, nhân dân thực hiện giám sát xã hội, tạo ra sức mạnh xã hội to lớn nhằm loại bỏ những nguy cơ tha hóa quyền lực, khắc phục xu hướng lạm quyền.
d. Mặt trận với việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi sức mạnh của Đảng nằm ở sự liên hệ chặt chẽ với nhân dân; mọi cán bộ, đảng viên đều phải “Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”(13). Từ đó, một khi mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, giữa nhân dân với Đảng được duy trì, củng cố, và phát triển thì sức mạnh của Đảng sẽ được nhân lên gấp bội. Mặt trận và các tổ chức thành viên đóng vai trò là cơ sở quần chúng của Đảng, là hình thức chính trị để Đảng tập hợp quần chúng, giáo dục, thu hút quần chúng trở thành lực lượng xã hội to lớn tham gia thực hiện những nhiệm vụ cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, Mặt trận có đoàn kết nhân dân nhất trí một lòng đi theo Đảng thì cơ sở chính trị của Đảng mới được phát huy, sự lãnh đạo của Đảng mới có hiệu lực trong thực tiễn. Bên cạnh đó, với vai trò là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, Mặt trận một mặt tuyên truyền, vận động nhân nhân chấp hành đường lối của Đảng, mặt khác, đề xuất các kiến nghị hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng cho phù hợp thực tiễn và ý nguyện của nhân dân. Có như vậy Đảng mới thực sự trở thành lực lượng tiên phong lãnh đạo Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, con đường đi lên CNXH ở nước ta mới được hiện thực hóa. Với vai trò liên minh chính trị, “Mặt trận Tổ quốc không đứng ngoài cuộc mà cùng Đảng đồng tâm hiệp lực trong đội ngũ cách mạng kiên cường, khắc phục khó khăn, phấn đấu ổn định tình hình kinh tế - xã hội bằng những hành động cụ thể, nói đi đôi với làm”(14).
e. Mặt trận tham gia xây dựng và thực hiện đường lối đối ngoại hoà bình, hữu nghị, hợp tác, bình đẳng và phát triển theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng trên các mặt, lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính sách đối ngoại của Đảng ta không ngừng được đổi mới, mở rộng để chủ động đón nhận những thời cơ mới, vận hội mới cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phương châm và định hướng lớn của hoạt động đối ngoại là “Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”(15). Để hỗ trợ cho công tác đối ngoại chung, trong những năm qua, Mặt trận luôn chú trọng thực hiện nhiệm vụ đối ngoại nhân dân, vận động, tranh thủ được đa dạng các nguồn lực, sự hỗ trợ của bạn bè quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai, chiến tranh, v.v.. Thông qua hoạt động đối ngoại nhân dân, không chỉ niềm tin yêu của bạn bè quốc tế đối với con đường cách mạng chính nghĩa của nhân dân Việt Nam được củng cố đáng kể, mà mối quan hệ hữu nghị, hợp tác, đoàn kết quốc tế giữa Việt Nam và các nước trên thế giới cũng được tăng cường, phát huy.
f. Mặt trận tham gia công tác nhân sự của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Mặt trận cũng có một vai trò độc lập trong công tác nhân sự của chính quyền nhà nước, là một kênh tham khảo quan trọng, đáng tin cậy để giúp Đảng và Nhà nước tuyển chọn, sử dụng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên hết lòng phục vụ nhân dân, phụng sự cách mạng. Trách nhiệm của Mặt trận trong công tác nhân sự của bộ máy nhà nước được quy định rõ trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, như: Tham gia tổ chức hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử (Điều 19); cử đại diện tham gia Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia, Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng thi tuyển kiểm sát viên sơ cấp, kiểm sát viên trung cấp, kiểm sát viên cao cấp. Ủy ban Mặt trận cấp tỉnh, cấp huyện chủ trì lựa chọn, giới thiệu người đủ điều kiện, tiêu chuẩn để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm nhân dân (Điều 20), v.v.. Trong những năm qua, Mặt trận đã thể hiện vai trò quan trọng trong công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Đơn cử như trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021, Mặt trận đã tổ chức 15 đoàn giám sát công tác tổ chức bầu cử tại 37 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương(16).
Với những sứ mệnh cao cả, trong suốt chiều dài 90 năm lịch sử hình thành và phát triển (1930 - 2020), Mặt trận đã luôn góp phần quan trọng làm nên những thành tựu vẻ vang trong lịch sử nói chung và trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nói riêng. Trong thời gian tới, cần tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận, quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức trong việc tiếp thu, giải trình các ý kiến giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận. Đồng thời, tăng cường sự phối hợp, kết hợp giữa hoạt động giám sát của Mặt trận và các tổ chức thành viên với hoạt động thanh tra của các cơ quan nhà nước, hoạt động kiểm tra của Đảng, và hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp để phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, lập nên những kỳ tích mới trong thế kỷ XXI./.
___________________________________
(1) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. CTQG - Sự thật, H., 2011, T.8, tr.263.
(2) V.I.Lênin (2006), Toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.34, tr.269.
(3) Đề tài nghiên cứu khoa học KX.05.10 (1994): Vị trí, tính chất Mặt trận, các đoàn thể, tổ chức xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Báo cáo tổng luận), H., tr.162.
(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (2005), Nxb. CTQG, H., tr.509.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.19, tr.36.
(6) ĐCSVN, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011), Nxb. CTQG Sự thật, H., 2011.
(7), (11), (16) Nguyễn Quang Minh, Một số kết quả và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tạp chí Mặt trận, Số 173+174, Tháng 1+2/2018, tr.73, 74, 74.
(8) Ngô Sách Thực, Những vấn đề đặt ra trong công tác giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay, Tạp chí Mặt trận, Số 166-167 (6+7/2017), tr.15.
(9) Ngô Sách Thực, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với việc thực hiện Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Mặt trận, Số 203 (7/2020), tr.10.
(10) Điều 33, Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17-7-2013 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập quy định: “MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát việc thực hiện pháp luật về minh bạch tài sản, thu nhập”.
(12) Nguyễn Nhật Khanh, Vị trí, vai trò của giám sát xã hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, Tạp chí Mặt trận, số 196 (3.2020), tr.22.
(13) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. CTQG - Sự thật, H., T.5, tr.337.
(14) Trường Chinh (1972), Về công tác Mặt trận hiện nay, Nxb. Sự thật, H., 1972, tr.10.
(15) ĐCSVN (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, H., 2016, tr.35.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 24.2.2021
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Nghiên cứu dựa trên các điều tra khảo sát hàng năm của khoa Xã hội học và Phát triển đối với sinh viên đang học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền nhằm đánh giá về nhiều vấn đề xã hội trong có đánh giá về giảng viên và cơ sở vật chất thông qua 48 biến số. Kết quả nghiên cứu năm 2024 với 734 sinh viên cho thấy, phần lớn sinh viên đánh giá ở mức cao hơn so với một số đánh giá của sinh viên tại các trường đại học khác. Có 7 nhóm yếu tố được đánh giá ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về giảng viên và cơ sở vật chất gồm: Chất lượng giảng viên; Chuyên môn của giảng viên; Phương pháp dạy của giảng viên; Năng lực tổ chức môi trường học tập; Phẩm chất sư phạm của giảng viên; Cố vấn học tập; Cơ sở vật chất. Đối với biến phụ thuộc đo lường về sự hài lòng của sinh viên dựa trên thang đo niềm tin (được đánh giá với thang đo từ 0-9 điểm) thông qua 9 biến số về quản lý, giảng viên, cơ chế đào tạo, phương pháp giảng dạy, thư viện và cơ sở vật chất của giảng đường.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận