Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về “phát triển rút ngắn” và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự “phát triển rút ngắn”
Một trong những phát kiến vĩ đại của C.Mác là chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là nội dung cơ bản, quan trọng nhất. Học thuyết chỉ ra rằng, sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Sự thay thế của một hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa là do sự phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, lịch sử xã hội loài người từ trước đến nay đã và đang trải qua những phương thức sản xuất khác nhau: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản.
Khi luận giải học thuyết hình thái - kinh tế xã hội, C.Mác, Ph.Ăngghen và sau này là V.I.Lênin đều cho rằng, sự phát triển và thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội xét trên bình diện toàn thế giới, là sự phát triển tuần tự của các phương thức sản xuất. Tuy nhiên, tuỳ điều kiện cụ thể không phải dân tộc nào cũng nhất thiết trải qua tuần tự, mà có thể bỏ qua một hoặc vài phương thức sản xuất để phát triển lên phương thức sản xuất cao, tiến bộ hơn.
Khi trung tâm cách mạng thế giới dịch chuyển từ phương Tây sang phương Đông, C.Mác và Ph.Ăngghen rất chú ý nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của xã hội ở những nước kém phát triển, trong đó đặc biệt là ở các nước phương Đông lạc hậu. Các ông đã so sánh và chỉ ra những điểm khác biệt cơ bản về kết cấu xã hội phương Đông với phương Tây nhằm tìm ra con đường phát triển xã hội và tiền đồ tương lai của các nước kinh tế lạc hậu.
Một là, C.Mác cho rằng, ở phương Đông không có chế độ tư hữu ruộng đất như ở phương Tây. Ph.Ăngghen cũng đồng ý với cách nhìn của C.Mác, hơn nữa ông còn nghiên cứu vấn đề tại sao các dân tộc phương Đông không có chế độ tư hữu ruộng đất, thậm chí không có chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến kiểu phương Tây. Ở phương Tây mang tính cát cứ, còn ở phương Đông mang tính tập quyền, thì chuyển quyền sở hữu sau cách mạng dễ hơn. Ph.Ăngghen nhận định, đó là do những điều kiện tự nhiên, khí hậu, điều kiện thổ nhưỡng quyết định; “điều kiện đầu tiên của nghề nông ở đây là tưới nước nhân tạo, mà tưới nước là công việc hoặc của các công xã, hoặc của các tỉnh, hoặc của chính phủ trung ương”(1).
Đây là “chức năng công cộng” của chính phủ. Sau đó C.Mác phát triển hơn nữa tư tưởng đó, khi ông cho rằng: “Điều kiện tất yếu sơ đẳng đó về việc sử dụng nước một cách tiết kiệm và tập thể đã buộc các nhà kinh doanh riêng lẻ ở phương Tây liên kết với nhau thành các hội tự nguyện… thì ở phương Đông, nơi mà nền văn minh còn ở trình độ quá thấp và quy mô đất đai quá rộng để có thể tổ chức những hội tự nguyện - lại đòi hỏi cấp thiết phải có sự can thiệp của chính quyền nhà nước tập trung. Do đó, mới nảy sinh ra cái chức năng kinh tế mà tất cả các chính phủ châu Á đều bắt buộc phải thực hiện, cụ thể là chức năng tổ chức các công trình công cộng”(2).
Hai là, xã hội phương Đông trì trệ. C.Mác cho rằng, nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc và chế độ chuyên chế phương Đông đã tạo ra sự thụ động, “hạn chế lý trí của con người trong những khuôn khổ chật hẹp nhất làm cho nó trở thành một công cụ ngoan ngoãn của mê tín, trói buộc nó bằng những xiềng xích nô lệ của cái quy tắc cổ truyền, tước đoạt nó mọi sự vĩ đại, mọi tính chủ động lịch sử”(3). Kết cấu xã hội đó chậm thay đổi, bên trong xã hội không tạo ra động lực, cơ chế tự đổi mới. Cho nên, nhu cầu cấp bách là phải có một cuộc cách mạng làm thay đổi căn bản kết cấu xã hội hiện tồn.
Ba là, chế độ xã hội đặc biệt phương Đông - chế độ công xã nông thôn. C.Mác chỉ ra rằng: “Từ những thời kỳ xa xưa nhất, đã đẻ ra một chế độ xã hội đặc biệt gọi là chế độ công xã nông thôn, chế độ này đã đem lại cho mỗi đơn vị bé nhỏ ấy cái tổ chức độc lập và cuộc sống biệt lập của nó”(4). C.Mác còn cho rằng: “Những công xã tổ chức theo lối gia đình này dựa trên cơ sở công nghiệp gia đình, trên sự kết hợp đặc biệt giữa nghề dệt vải bằng tay, nghề kéo sợi bằng tay và phương thức canh tác ruộng bằng tay, sự kết hợp đó làm cho những cái đó có tính chất tự cấp tự túc”(5). Mặc dù tổ chức biệt lập, nhưng tính tập thể của nó đã hằn sâu trong tập quán ở nơi đây.
Từ đó C.Mác nhận định rằng, các nước kinh tế lạc hậu, nhất là ở phương Đông hãy còn ở giai đoạn tiền tư bản, hơn nữa còn bảo tồn chế độ công xã nông thôn tương đối hoàn chỉnh, thì có ba khả năng về tiền đồ phát triển:
Thứ nhất, bị phương Tây biến thành thuộc địa, công xã tan rã, phát triển chủ nghĩa tư bản;
Thứ hai, chế độ tư hữu trong nội bộ công xã chiến thắng chế độ công hữu, việc đó diễn ra từ từ;
Thứ ba, chế độ công hữu chiến thắng chế độ tư hữu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thu hút mọi thành quả đã được khẳng định do chủ nghĩa tư bản sáng tạo ra, tiếp thu những thành tựu của nhân loại, tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Trong ba khả năng trên, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, đối với các nước phương Đông kém phát triển, chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thì khả năng thứ ba là dễ xảy ra hơn cả. Công cuộc thực dân hoá của phương Tây không những thúc đẩy các xã hội phương Đông tiến nhanh hơn đến một thế giới nhất thể hoá, tham gia vào tiến trình hiện đại hoá, mà ngược lại nó còn làm cho chế độ công xã nông thôn tan rã.
C.Mác cho rằng, tính hai mặt bên trong vốn có của công xã nông thôn, xã hội phương Đông đang đứng trước ngã ba đường của sự phát triển lịch sử. Ba khả năng khác nhau, ba phương hướng phát triển khác nhau đó, cùng tồn tại. Kết cục của chúng không giống nhau, thậm chí còn khác nhau xa. Nói một cách rõ ràng thì khả năng thứ ba, tức là con đường tiến hoá dễ xảy ra hơn so với hai khả năng trên.
Vào những năm cuối đời, C.Mác đã lấy nước Nga làm đối tượng nghiên cứu như là mô hình của các nước phương Đông, kém phát triển, chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Năm 1882, khi viết lời tựa cho lần xuất bản tiếng Nga tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đặt vấn đề: Công xã Nga, cái hình thức đã bị phân giải của chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy, có thể chuyển thẳng lên hình thức cao, cộng sản chủ nghĩa về sở hữu ruộng đất không, hay là trước hết, nó cũng phải trải qua quá trình tan rã như nó đã trải qua trong tiến trình phát triển lịch sử của phương Tây? C.Mác cho rằng: “Ngày nay, lời giải đáp duy nhất cho câu hỏi ấy là thế này: nếu cách mạng Nga là tín hiệu một cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây và nếu cả hai cuộc cách mạng ấy bổ sung cho nhau thì chế độ sở hữu công xã về ruộng đất công cộng ở Nga hiện nay có thể là khởi điểm của một sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa”(6).
Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen là rất rõ ràng, khả năng duy nhất để nước Nga đi theo con đường phát triển không phải phương Tây, không phải tư bản chủ nghĩa là phải gắn liền, phối hợp với cách mạng vô sản thế giới; đứng ở tầm cao chiến lược tổng thể cách mạng vô sản thế giới và của việc lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa để luận giải lịch trình phát triển đặc thù của xã hội nước Nga, cũng như “phương thức sản xuất châu Á” nói chung. Đó là điểm xuất phát cơ bản vào lúc cuối đời của C.Mác và Ph.Ăngghen trong việc vạch ra tư tưởng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đi lên chủ nghĩa cộng sản.
V.I.Lênin đã kế thừa quan điểm trên đây của C.Mác và Ph.Ăngghen, phát triển lý luận về quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới, khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang giai đoạn mới, sau khi cách mạng tháng Mười Nga thành công. Tại Đại hội lần thứ hai của Quốc tế III (tháng 8.1920), V.I.Lênin cho rằng: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(7).
Tuy nhiên, để những nước kém phát triển bỏ qua một phương thức sản xuất nào đó để tiến lên một phương thức sản xuất cao hơn (tiền chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội) phải có những điều kiện cần và đủ của cách mạng. Có thể khái quát những điều kiện đó theo quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin là:
Một là, trên thế giới phương thức sản xuất bị bỏ qua đã tỏ ra lỗi thời.
Hai là, trên thế giới xuất hiện phương thức sản xuất mới, ở trình độ cao hơn, tiến bộ hơn.
Ba là, trong nước đã xuất hiện một giai cấp tiên tiến có đủ năng lực lãnh đạo cuộc cách mạng, để xác lập một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Đồng thời, các ông cũng cảnh báo: những nước lạc hậu lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thì dễ hơn so với những nước tư bản phát triển, nhưng để đạt được nó - chủ nghĩa xã hội, thì khó khăn hơn, lâu dài hơn, phức tạp hơn và phải trải qua rất nhiều lần thử nghiệm - thời kỳ quá độ, trong quá trình đó đôi lúc phải trả giá đắt.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo quan điểm về “sự phát triển rút ngắn”
Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là quan điểm về sự phát triển “rút ngắn” - bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, ngay từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đã lựa chọn con đường phát triển tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong Chính cương vắn tắt, Đảng ta chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Như vậy, ngay từ những năm đầu thế kỷ 20, Việt Nam đã lựa chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cho dù có nhiều biến động to lớn trên thế giới như sự kiện chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ vào những năm 90 của thế kỷ 20, Đảng ta vẫn luôn nhất quán con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: “Lịch sử thế giới đang có những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử”(8). Con đường cách mạng Việt Nam là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa với đặc trưng nổi bật là từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều, đồng thời cũng có sự hoàn thiện căn bản về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: từ làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, và hiện nay là quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”.
Đại hội IX của Đảng đã làm rõ việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” là: bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại(9). Như vậy, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và tình trạng áp bức, bóc lột chứ không bỏ qua những thành tựu văn minh vật chất và tinh thần mà loài người đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Cần nhấn mạnh điều này trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chống lại những quan điểm siêu hình, đem đối lập giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, không thấy được sự phát triển biện chứng kế tiếp nhau của hai hình thái kinh tế - xã hội đó.
Như vậy, Đảng ta đã kế thừa và phát triển tư duy biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phát triển thành “phát triển rút ngắn” - “bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thuộc hình thức quá độ gián tiếp. V.I.Lênin đã từng cho rằng, đối với những nước tiền tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội thì dễ dàng hơn, nhưng để kết thúc nó thì lâu dài, khó khăn, phức tạp gấp nhiều lần. Phải trải qua nhiều lần thử nghiệm, trong quá trình đó nhiều khi phải trả giá cho những sai lầm. Ở nước ta, trong một thời gian dài trong nhận thức của nhiều người không có sự phân biệt các kiểu quá độ khác nhau lên chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là, bất kỳ nước nào tiến lên chủ nghĩa xã hội, dù có xuất phát điểm như thế nào, cũng đều thuộc về cùng một kiểu quá độ. Sự quá độ của những nước có nền xuất phát điểm thấp kém phát triển bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải là một kiểu nào khác, mà chỉ là một dạng đặc biệt của kiểu quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Từ những bài học kinh nghiệm trước đây, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), khi nói về thời kỳ quá độ, Đảng ta khẳng định: nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, “đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”(10).
Từ nhận thức như vậy, cho nên về thời gian và bước đi trong thời kỳ quá độ, tại Đại hội XIII của Đảng đã xác định: phấn đấu giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Khi kết thúc thời kỳ quá độ, mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta hướng tới xây dựng là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Để thực hiện thành công mục tiêu trên, Đảng ta đã đưa ra những phương hướng và nhiệm vụ cần thực hiện là: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước nhanh, bền vững. Trong đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội được xác định là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng, nhiệm vụ này được quan tâm đẩy mạnh, đạt một số thành tựu; nhưng kết quả còn nhiều hạn chế, mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt được; trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp... Đây là hạn chế, điểm yếu quan trọng của nước ta. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra hết sức mạnh mẽ, cạnh tranh giữa các cường quốc hết sức gay gắt, quyết liệt, nhiệm vụ đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao năng suất có ý nghĩa sống còn đối với đất nước ta.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu của cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở quan điểm về “phát triển rút ngắn” của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đáng tự hào nhưng trên con đường “phát triển rút ngắn” còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để bổ sung vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội XIII đã xác định cần phải tập trung giải quyết tốt 10 mối quan hệ lớn, có như vậy mới có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.
_________________________________________________
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen (1996), Toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.28, tr.345
(2), (3), (4), (5) C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Nxb. CTQG Sự thật, H., T.9, tr.173,177,175,176.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. CTQG Sự thật, H., T.19, tr.434
(7) V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Nxb. CTQG Sự thật, H., T.41, tr.295
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG Sự thật, H., tr.69
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG Sự thật, H., tr.84.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG Sự thật, H., tr.70.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số 4/2023
Bài liên quan
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
- Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
- Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
- Đôi nét về triết học ngoài mác-xít hiện đại
Xem nhiều
- 1 Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trong lòng dân tộc Việt Nam và thế giới
- 2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- 3 Tăng cường giáo dục thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
- 4 Tạo sự thống nhất cao trong toàn hệ thống chính trị về chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy trong tình hình mới; phấn đấu thực hiện mục tiêu tăng trưởng hai con số; chuẩn bị tốt đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng*
- 5 Đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động của các tạp chí Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
- 6 Nâng cao ý thức chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tăng cường ứng dụng AI vào hoạt động xuất bản ở Việt Nam hiện nay
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra sự biến đổi lớn đặt ra yêu cầu phải chuyển đổi số các mặt hoạt động để bắt kịp sự tiến bộ của thời đại. Đây đang là vấn đề cấp bách và cần thiết của Việt Nam hiện nay. Hoà mình vào dòng chảy đó, ngành Xuất bản cũng có những thay đổi để theo kịp thời đại mới. Ứng dụng công nghệ số là bước phát triển tất yếu của ngành Xuất bản không chỉ do sự thay đổi cách đọc của độc giả gắn với các thiết bị điện tử thông minh mà còn bởi cả ở quy trình sáng tạo tác phẩm, biên tập, in ấn và phát hành đều phải hướng đến ứng dụng AI vào quy trình hoạt động. Tuy vậy, sự phát triển của khoa học kỹ thuật vừa là cơ hội nhưng đồng thời cũng là thách thức lớn với ngành Xuất bản. Các nhà xuất bản, và cụ thể là các biên tập viên, cần phải nhanh chóng nắm bắt được kỹ năng sử dụng AI để phục vụ cho công tác xuất bản là nhằm phục vụ độc giả tốt nhất trong tương lai gần.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về “phát triển rút ngắn” và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về “phát triển rút ngắn” và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa - con đường “phát triển rút ngắn”, bài viết phân tích, làm rõ sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng, để từ đó khẳng định tính đúng đắn của việc xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, không những có cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc mà còn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại ngày nay.
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, mặc dù không để lại những tác phẩm chuyên nghiên cứu về quản lý phát triển xã hội, nhưng qua các tác phẩm về kinh tế - chính trị, chính trị - xã hội của các ông, có thể rút ra những luận điểm cơ bản về quản lý phát triển xã hội. Các luận điểm này giúp các nhà quản lý xã hội thấy được bức tranh toàn cảnh xã hội một cách duy vật, cụ thể, với tính cách là kết quả hoạt động thực tiễn xã hội của con người.
Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
Sau khi hai tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau chuyển bị về mặt lý luận cho Cách mạng dân chủ tư sản Pháp ra đời người ta thường nói đến thuộc tính pháp quyền gắn liền với nền dân chủ tư sản, người ta nói đến nhà nước pháp quyền tư sản, hệ thống dân chủ tư sản. Đến chủ nghĩa xã hội thì thuộc tính pháp quyền này lại ít được nhắc đến. Liệu chủ nghĩa xã hội có mang thuộc tính pháp quyền hay không và thuộc tính pháp quyền này khác với thuộc tính pháp quyên dân chủ tư sản như thế nào?
Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, lần đầu tiên vấn đề nhà nước được V.I.Lênin trình bày một cách có hệ thống. Giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm là đã làm sáng tỏ tính quy luật trong sự sinh thành, vận động và phát triển, đưa ra những dự báo khoa học về xu hướng và điều kiện về sự tự tiêu vong của nhà nước trong tiến trình tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị khoa học, cách mạng và tính thời sự. Trong tình hình hiện nay, nắm vững thực chất và vận dụng tư tưởng của tác phẩm là cơ sở vững chắc để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bình luận