Thị trường xuất bản phẩm Việt Nam - Thực trạng và xu hướng
1. Thực trạng thị trường xuất bản phẩm Việt Nam
Thị trường xuất bản phẩm Việt Nam đã sớm hình thành. Về phương diện quản lý, Đảng và Nhà nước vừa định hướng, vừa quản lý thị trường xuất bản phẩm. Về phương diện kinh tế, thị trường xuất bản phẩm thể hiện mối quan hệ đặc trưng giữa các yếu tố cấu thành thị trường - hàng hoá xuất bản phẩm, người mua, người bán (nhà cung cấp).
Hàng hoá xuất bản phẩm
Theo khoản 3, Điều 4 Luật Xuất bản, xuất bản phẩm là tác phẩm, tài liệu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật được xuất bản thông qua nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức được cấp phép xuất bản bằng ngôn ngữ khác nhau, bằng hình ảnh, âm thanh, thể hiện dưới các hình thức: a) Sách in; b) sách chữ nổi; c) Tranh, ảnh, bản đồ, áp-phích, tờ rời, tờ gấp; d) Các loại lịch; đ) Bản ghi âm, ghi hình có nội dung thay sách hoặc minh họa cho sách(1). Báo cáo thường niên của Cục Xuất bản, In và Phát hành cho thấy, số lượng sách in và bản in tăng trưởng ổn định. Năm 2024, toàn ngành xuất bản khoảng 51.443 xuất bản phẩm, đạt 597.182.861 bản. Trong đó, xuất bản phẩm dạng sách in đạt 43.463 cuốn với 501.678.683 bản (tăng 39,2% về số cuốn và 8,8% về bản). Số đầu sách bình quân đạt mức 5,9 bản/người/năm, tiệm cận mức cao năm 2022(2). Các đơn vị xuất bản thực hiện đa dạng hoá mặt hàng, đầu tư trọng điểm vào mảng sách có nhu cầu cao.
Cùng với tăng trưởng về quy mô, cơ cấu xuất bản phẩm, đặc biệt là sách in, đã điều chỉnh nhằm thích ứng với biến động của nhu cầu thị trường. Theo thống kê của Cục Xuất bản, In và Phát hành giai đoạn 2012-2024, cơ cấu sách có nhiều biến động. Trước hết, mảng sách chính trị-pháp luật vốn mang tính định hướng và thường “kén” độc giả. Tỷ lệ sách chính trị từ 15,8% (2012) giảm còn 7,81% (2024). Những năm 2020-2024, tỷ lệ sách dao động ở mức 6% - 9%, đạt đỉnh vào năm 2022 với 8,9%. Tương tự, nhóm sách khoa học, công nghệ, kinh tế cũng giảm tỷ trọng từ mức 17,2% (2012) xuống còn 8,71% (2024). Ngược lại, một số dòng sách duy trì ổn định tỷ lệ nhưng ghi nhận tăng trưởng về số lượng, tiêu biểu như sách văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo (17%-20%), sách văn học (10%-13%), hay sách thiếu nhi và thiếu niên (13%-14%)(3). Đặc biệt, mảng sách giáo khoa, giáo trình và tài liệu tham khảo chiếm tỷ lệ cao về cả số lượng đầu sách và bản in. Năm 2024, mảng sách này chiếm tỷ lệ 33,74% đầu sách và 77,35% số bản in(4).
Xuất bản phẩm điện tử đã tăng trưởng đáng kể cùng xu hướng số hoá ngành xuất bản. Tính đến ngày 31/12/2024, xuất bản phẩm dạng điện tử đạt 3.495 xuất bản phẩm. Đáng chú ý, xuất bản phẩm khác như đĩa DVD, tranh ảnh, bản đồ, lịch các loại đạt 4.485 xuất bản phẩm, tăng 96,7% so với năm 2023, với 74.504.178 bản phát hành(5).
Người mua - Độc giả và nhu cầu xuất bản phẩm
Độc giả là đối tượng sử dụng xuất bản phẩm trên thị trường. Nhu cầu độc giả đủ điều kiện sẽ chuyển hóa thành cầu thị trường. Sức mua của độc giả thể hiện sự tăng trưởng của thị trường xuất bản phẩm. Từ năm 2019 đến năm 2024, mức tăng trưởng doanh thu ngành xuất bản từ 2.775,127 tỷ đồng lên 4.528.249 tỷ đồng, gấp 1,63 lần. Số lượng phát hành xuất bản phẩm tăng 1,3 lần với doanh thu khoảng 4.800 tỷ đồng. Nhu cầu đối với xuất xuất phẩm nhập khẩu như sách, báo, tạp chí… tương đối cao, mức nhập khẩu trung bình 5 năm đạt trên 20 triệu bản sách/năm(6). Việc phân tích thực trạng người mua cần làm rõ trên các khía cạnh cụ thể như nhân khẩu học, nhu cầu và hành vi tiêu dùng.
Từ góc độ định lượng, dữ liệu nhân khẩu học cho phép đánh giá khả năng thúc đẩy hoặc hạn chế quy mô thị trường, dựa trên các tiêu chí cơ bản như độ tuổi, giới tính, dân tộc, trình độ học vấn. Tuy nhiên, dưới góc độ kinh doanh, không đơn vị xuất bản nào có khả năng đáp ứng toàn bộ nhu cầu độc giả. Vì vậy, phân tích nhân khẩu học cho phép nhìn nhận thị trường ở từng khía cạnh. Về cơ cấu giới tính, số liệu dân số Việt Nam năm 2024 cho thấy sự cân bằng tương đối, khoảng 50,6 triệu nam giới (49,9%) và 50,7 triệu nữ giới (50,01%), với tỷ lệ giới tính 99,2 nam/100 nữ(7). Mặc dù sự chênh lệch này không lớn, song sự khác biệt về phương diện thể chất, tâm lý và vai trò xã hội giữa hai nhóm đã tạo ra sự khác biệt trong hành động tiếp nhận và tiêu dùng xuất bản phẩm. Về cơ cấu lứa tuổi, cơ cấu dân số Việt Nam theo hướng già hoá là nội dung cần lưu ý. Nhóm dân số từ 0-14 tuổi đạt 23,3%; nhóm dân số trong độ tuổi lao động 15-64 tuổi đạt 67,4%; trong khi nhóm dân số từ 65 tuổi trở lên đạt 9,3%. Chỉ số già hoá ở mức 60,2%, dự báo đến năm 2030, số người từ 60 trở lên sẽ xấp xỉ 18 triệu người(8).
Những biến động này phản ánh thực tế rằng, dân số Việt Nam đang dịch chuyển theo hướng già hóa, song vẫn duy trì được một tỷ lệ dân số trẻ tương đối cao. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với thị trường xuất bản phẩm: một mặt, sự tăng nhóm người cao tuổi mở ra nhu cầu lớn về các loại sách phù hợp với người lớn tuổi (sách sức khỏe, kỹ năng sống, giải trí…); mặt khác, tỷ lệ dân số trẻ vẫn cao tiếp tục đảm bảo tiềm năng thị trường sách. Nói cách khác, cơ cấu dân số đặt ra yêu cầu đa dạng hóa sản phẩm, đồng thời cân bằng chiến lược phát triển giữa các phân khúc thị trường.
Trình độ học vấn là một yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ phổ biến và nhu cầu tiêu thụ xuất bản phẩm. Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học và tiệm cận mục tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Trình độ học vấn được nâng cao với tỷ lệ nhóm dân số biết chữ từ 15 tuổi có trình độ chuyên môn kỹ thuật khoảng 26,4%, trong đó trình độ đại học trở lên đạt 11,6%(9). Theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Việt Nam thuộc nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) cao. Sự cải thiện về chất lượng nguồn nhân lực đã định hình cơ cấu nhu cầu thị trường xuất bản phẩm theo hướng mới.
Nhu cầu của độc giả là yếu tố cơ bản cấu thành thị trường xuất bản phẩm, được định hình bởi thị hiếu cá nhân và môi trường văn hóa - xã hội. Nhu cầu độc giả vừa có tính đa dạng, vừa phân cấp, chuyên biệt. Khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Kenrearch (Ấn Độ) tại thị trường Việt Nam cho thấy, nhu cầu sách giáo dục khoảng 42,35%, sách văn học hư cấu khoảng 27,8%, sách phi hư cấu khoảng 21,45%, và 8,4% là các loại sách khác(10). Chân dung độc giả có thể đánh giá ở hai khía cạnh: Xét ở phân tầng tri thức, nhu cầu độc giả phân cấp từ thấp đến cao. Cấu trúc nhu cầu thị trường đang tập trung vào tri thức nền tảng và ứng dụng thực tiễn, trong khi tri thức chuyên sâu vẫn chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Ở góc độ tìm kiếm và thỏa mãn, nhu cầu độc giả được phân cấp phổ biến theo các mức độ: học tập và nghiên cứu, ứng dụng trong thực tế đời sống, giải trí và thẩm mỹ, sau đó mới đến nhu cầu đặc thù khác. Điều đó phản ánh đặc trưng của xu hướng dịch chuyển nhu cầu xã hội từ lý thuyết sang thực hành, ứng dụng và trải nghiệm. Phân khúc tri thức học thuật chuyên sâu vẫn là phân khúc tiềm năng cần chú trọng đầu tư để nâng cao chất lượng tri thức.
Hành vi tiêu dùng của độc giả thay đổi rõ nét dưới tác động của công nghệ. Theo thống kê của Cục Xuất bản, In và Phát hành, tỷ lệ truy cập sách điện tử liên tục tăng, đạt 36.000.000 lượt truy cập năm 2023(11). Mặc dù năm 2024 chỉ đạt 21.000.000 lượt truy cập, giảm 41,7% về lượt truy cập so với năm 2023(12) nhưng xu hướng tiêu dùng của độc giả đang có sự thay đổi rõ rệt.
Nhà cung cấp - Lực lượng kinh doanh xuất bản phẩm trên thị trường
Từ sự tăng trưởng của nhu cầu thị trường, yêu cầu thực tiễn và định hướng của Đảng và Nhà nước, lực lượng kinh doanh trên thị trường được mở rộng. Đơn vị kinh doanh xuất bản phẩm gồm nhà xuất bản, đơn vị phát hành công lập, đơn vị phát hành tư nhân, đơn vị xuất nhập khẩu sách báo với sự thay đổi về cách thức kinh doanh, thích ứng với bối cảnh thị trường. Nhà xuất bản đóng vai trò nguồn cung cơ bản, định hướng thị trường. Hiện nay, Việt Nam có 52 nhà xuất bản(13). Về chuyên môn, nhà xuất bản chia thành các nhóm: sách chính trị, pháp luật; sách giáo dục, giáo trình, tài liệu tham khảo; sách văn hoá, văn nghệ; sách thiếu nhi; sách khoa học kỹ thuật và sách tổng hợp. Cùng với xuất bản truyền thống, 31 trong tổng số 52 nhà xuất bản đã đăng ký xuất bản và phát hành sách điện tử, đánh dấu bước đi đầu tiên trong chuyển đổi số ngành xuất bản. Các nhà xuất bản thực hiện xuất bản và phát hành trên các nền tảng dùng riêng hoặc hợp tác với các công ty công nghệ. Trong đó, 9 nhà xuất bản tự phát triển nền tảng riêng; 10 nhà xuất bản dùng chung nền tảng điện tử của Nhà xuất bản Khoa học, Công nghệ và Truyền thông; 12 nhà xuất bản sử dụng nền tảng của các công ty công nghệ lớn như Công ty Công nghệ VHMT Việt Nam, Công ty Công nghệ Mio và Công ty TNHH Thương mại và
Kỹ thuật Sao Kim(14).
Mạng lưới phát hành sách phạm vi cả nước cũng được mở rộng với quy mô đáng kể. Toàn quốc có 2.060 cơ sở phát hành sách, trong đó gồm 572 doanh nghiệp và đơn vị sự nghiệp công lập, 1.488 nhà sách và hộ kinh doanh, 28 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nhập khẩu xuất bản phẩm và gần 13.500 điểm phát hành xuất bản phẩm(15). Các doanh nghiệp phát hành xuất bản phẩm công lập đã có những chuyển biến tích cực về mô hình tổ chức và phương thức hoạt động, gồm hai loại hình: Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn và các công ty cổ phần phát hành sách. Công ty TNHH một thành viên nhà nước chịu sự quản lý trực tiếp của cơ quan chủ quản, phải thực hiện đồng thời hai mục tiêu: bảo đảm hiệu quả kinh doanh và đáp ứng các nhiệm vụ chính trị - xã hội. Công ty TNHH MTV Sách Văn hóa phẩm Hà Nội hay Công ty TNHH MTV Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam là đại diện tiêu biểu cho nhóm này. Công ty cổ phần phát hành sách hoạt động năng động và hiệu quả nhờ cơ chế quản trị chủ động và đa dạng hóa nguồn lực. Nhiều đơn vị đã khẳng định vị trí trên thị trường như Công ty Cổ phần Phát hành sách Thành phố Hồ Chí Minh, Công ty Cổ phần Sách Việt Nam hay Công ty Cổ phần Sách Giáo dục Hà Nội,…
Phát hành xuất bản phẩm tư nhân là động lực chính cho thị trường xuất bản phẩm Việt Nam, phát triển nhanh chóng về quy mô với đa dạng loại hình (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hộ kinh doanh). Các đơn vị này tham gia lĩnh vực xuất bản thông qua cơ chế liên kết, nhạt bén với xu thế xuất bản trên thế giới. Một số đơn vị nổi bật như Công ty TNHH Văn hóa Văn Lang, Công ty TNHH Thương mại - Dịch vụ văn hóa Hương Trang, Công ty cổ phần sách Alpha, Công ty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam,… Sự nổi lên của doanh nghiệp số Công ty Cổ phần sách điện tử Waka, Công ty Cổ phần sách nói Fonos, Công ty TNHH Công nghệ WeWe đã định hình mô hình kinh doanh xuất bản phẩm dựa trên nền tảng công nghệ.
2. Xu hướng phát triển thị trường xuất bản phẩm
Sự phát triển của thị trường xuất bản phẩm gắn liền với những biến đổi của môi trường quốc tế và trong nước. Trên thế giới, toàn cầu hóa xuất bản đã diễn ra từ lâu, đặc biệt sự trỗi dậy mạnh mẽ của công nghệ số đã tạo ra sự thay đổi căn bản trong chuỗi giá trị xuất bản, từ sản xuất đến phân phối. Ở Việt Nam, Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030 của Chính phủ tạo động lực mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực, bao gồm cả xuất bản.
Thứ nhất, sự dịch chuyển từ xuất bản phẩm in sang xuất bản phẩm số. Số hoá và đa dạng hoá định dạng sản phẩm là xu hướng tất yếu. Ở góc độ kỹ thuật, số hóa không chỉ đơn thuần là việc chuyển đổi sản phẩm từ dạng thức vật lý sang dạng thức điện tử mang tính kỹ thuật, mà còn là sự dịch chuyển của mang tính hệ thống của chuỗi xuất bản. Đa dạng hoá định dạng sản phẩm là hệ quả trực tiếp của công nghệ số, cho phép hình thành hệ sinh thái nội dung đa hình thức. Một tác phẩm có thể tồn tại ở nhiều hình thức để phục vụ các nhóm độc giả khác nhau. Ở góc độ độc giả, cùng với chuyển dịch cơ cấu dân số, nhu cầu và hành vi của độc giả thay đổi, ngày càng ưa chuộng trải nghiệm công nghệ bởi sự tiện lợi, di động và cá nhân hoá(16). Ở góc độ đơn vị xuất bản, yêu cầu giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm không gian lưu kho và đẩy nhanh tốc độ phân phối đòi hỏi họ phải thay đổi và sáng tạo ra mô hình kinh doanh phù hợp. Tỷ lệ tăng trưởng xuất bản phẩm điện tử trong 5 năm (2020-2024) tăng 1,7 lần. Cùng với sách in, xuất bản phẩm điện tử theo 07 mảng đề tài gia tăng về số lượng, tập trung tỷ lệ cao vào sách Giáo khoa, giáo trình, tham khảo (33,74%), sách Thiếu niên, nhi đồng (23,39%), sách Văn hoá-xã hội, Nghệ thuật, Tôn giáo (18,45%). Tỷ lệ này ở mức trung bình đối với sách Chính trị, pháp luật (8,44%) và sách Văn học (9,54%)(17). Trong tương lai, xuất bản phẩm điện tử dự báo sẽ chiếm tỷ trọng cao trong tổng xuất bản phẩm.
Thứ hai, xu hướng phân mảnh ngày càng cao của thị trường xuất bản phẩm. Sự phân mảnh thị trường theo nhu cầu cầu và hành vi khác nhau tạo ra cơ hội lẫn thách thức đối với đơn vị xuất bản, tác giả và cơ quan quản lý.
Xét về nhu cầu, nhu cầu độc giả đang chuyển biến theo hướng đa dạng và cá nhân hoá, thể hiện ở sự lựa chọn đa định dạng, đa mục đích, đa nội dung. Mỗi độc giả có xu hướng lựa chọn và kết hợp nhiều loại hình để đáp ứng nhu cầu. Sách in vẫn giữ vai trò quan trọng đối với nhu cầu đọc sâu, tư duy phản biên. Bên cạnh đó, các loại sách điện tử cho độc giả trải nghiệm mới, ví dụ như sách điện tử tiện lợi, cho phép người dùng chủ động lựa chọn địa điểm và thời gian đọc, hay sách nói mở rộng trải nghiệm, giúp tiếp nhận tri thức đồng thời kết hợp với các hoạt động khác. Nhu cầu đa định dạng phản ánh sự thay đổi trong cách độc giả tiếp cận tri thức: Độc giả không còn phụ thuộc vào một hình thức duy nhất mà tận dụng công nghệ để tối ưu hóa nhu cầu cá nhân. Xét về hành vi tiêu dùng, độc giả có xu hướng điều chỉnh mục đích khi lựa chọn xuất bản phẩm. Mục đích không chỉ giới hạn trong học tập, giải trí mà ngày càng hướng tới đa mục tiêu. Sự mở rộng thị phần sách kỹ năng nghề nghiệp đã định hình xu hướng tiếp cận tri thức mở, nâng cao năng lực tự học và khả năng gia nhập xã hội.
Thứ ba, xu hướng đọc để tiếp cận thông tin chất lượng và tham gia xã hội công dân. Xuất bản phẩm đóng vai trò truyền tải thông tin chính thống, khoa học. Độc giả vẫn duy trì sự quan tâm nhất định đến sách chính trị, xã hội thay vì phụ thuộc vào các nguồn thông tin không chính thống khác. Sự duy trì ổn định các mảng sách chính trị, xã hội phản ánh sự cần thiết đối với độc giả, đặc biệt là độc giả làm việc trong khu vực công(18)0. Đối với độc giả trẻ, mặc dù tỷ lệ đọc chưa cao nhưng họ đã nhận thức được vai trò quan trọng của việc đọc loại sách này(19).
Thứ tư, xu hướng đọc để gia nhập cộng đồng. Cộng đồng sách gắn liền với sự phát triển văn hoá đọc, mang tính xã hội rộng rãi. Đây không chỉ là không gian giao tiếp, chia sẻ trải nghiệm, mà còn tạo nên hiệu ứng xã hội mạnh mẽ, thu hút độc giả trẻ(20). Các cộng đồng lớn như Trạm Đọc, Nhã Nam Reading Club, Hội yêu sách, Hội yêu thích tác phẩm văn học kinh điển, Hội mê sách văn học v.v. tạo nên giá trị tích cực, khiến việc đọc trở thành hoạt động gắn kết xã hội, trao đổi tri thức và kích thích thị trường sách. Như vậy, độc giả cá nhân hoá phản ánh một sự dịch chuyển tất yếu của thị trường xuất bản phẩm. Độc giả không còn “đồng nhất” mà trở thành những cá nhân đa dạng về hành vi, mục đích.
Thứ năm, xu thế kinh doanh xuất bản phẩm mới. Sự phát triển của công nghệ số đã tạo ra thay đổi căn bản trong cách thức kinh doanh của các đơn vị xuất bản. Mô hình đa kênh kết hợp đồng thời cửa hàng trực tuyến, sàn thương mại điện tử, ứng dụng di động, mạng xã hội trở thành mô hình kinh doanh mới phù hợp với thời đại số. Những đơn vị phát hành dẫn đầu cho xu hướng này, tiêu biểu như fahasha.com, vinabook.com, phuongnam.com.vn, stbook.vn, sachquocgia.vn, book365.vn, … Tốc độ chuyển đổi số trong kinh doanh ở nhà xuất bản lại khá chậm(21). Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc thiếu thiếu hụt về hạ tầng công nghệ, nguồn nhân lực chuyên môn(22). Mặc dù còn hạn chế, nhưng kinh doanh xuất bản phẩm trực tuyến vẫn là xu hướng tất yếu, yêu cầu các nhà xuất bản tiếp tục đầu tư, hoàn thiện nền tảng xuất bản số. Kinh doanh sách điện tử và sách nói chiếm tỷ trọng doanh thu đáng kể trên nền tảng đọc trực tuyến dự báo xu hướng tiêu thụ nội dung mới theo hướng trải nghiệm cá nhân hoá.
Tóm lại, thị trường xuất bản phẩm Việt Nam đang chuyển mình dưới tác động toàn cầu hoá và cách mạng công nghệ 4.0. Bức tranh thực trạng đang định dạng rõ nét thị trường về quy mô và chất lượng. Sự nổi lên của xu hướng mới, từ chuyển đổi số, kinh doanh đa kênh, phát triển xuất bản phẩm số cho đến phân mảnh thị trường theo hướng cá nhân hoá, cho thấy tiềm năng tăng trưởng và tái cấu trúc thị trường xuất bản phẩm trong tương lai. Đặc biệt, kinh doanh xuất bản phẩm gắn với các giá trị xã hội là nền quan trọng tảng giúp thị trường phát triển bền vững và giàu bản sắc trong kỷ nguyên số./.
____________________________________________
(1) Quốc hội Việt Nam (2022), Luật Xuất bản hiện hành (sửa đổi, bổ sung 2018), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.10.
(2), (5), (12), (15), (22) Cục Xuất bản, In và Phát hành (2024), Báo cáo tổng kết hoạt động xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm năm 2024 và triển khai nhiệm vụ năm 2025, Thành phố Hồ Chí Minh.
(3) Số liệu tác giả tổng hợp từ Phụ lục Thống kê xuất bản phẩm lưu chiểu kèm Báo cáo tổng kết của Cục Xuất bản, In và Phát hành từ năm 2012 đến năm 2024.
(4), (17) Phụ lục 1.2: Thống kê Xuất bản phẩm lưu chiểu năm 2024 (Ban hành kèm theo Báo cáo tổng kết hoạt động xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm năm 2024 và triển khai nhiệm vụ năm 2025, Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 22/4/2025).
(6) Số liệu tác giả tổng hợp từ Báo cáo tổng kết của Cục Xuất bản, In và Phát hành năm 2019, 2020, 2021, 2022, 2023, 2024.
(7), (8), (9)Tổng cục Thống kê (2024), Thông cáo Báo chí kết quả điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024, https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/thong-cao-bao-chi-ket-qua-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-giua-ky-nam-2024/, truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2025.
(10), (16) Samanyu Maan (2024), Thị trường sách điện tử Việt Nam và tầm nhìn đến 2030 (Vietnam ebook market outlook to 2030, Trung tâm Kenreseach, India, https://www.kenresearch.com/industry-reports/vietnam-e-book-market, truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2025.
(11) Cục Xuất bản, In và Phát hành (2023), Báo cáo tổng kết hoạt động xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm năm 2023 và triển khai nhiệm vụ năm 2024, Thành phố Hồ Chí Minh.
(13) Tính đến tháng 12/2024, Việt Nam có 57 nhà xuất bản. Từ tháng 7/2025, Việt Nam còn 52 nhà xuất bản, giảm 5 nhà xuất bản do sát nhập hoặc giải thể.
(14) Phụ lục 1.5: Danh sách các nhà xuất bản được xác nhận xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử năm 2024, (Ban hàn kèm theo Báo cáo tổng kết hoạt động xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm năm 2024 và triển khai nhiệm vụ năm 2025, Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 22/4/2025).
(18) Phụ lục 1: Kết quả khảo sát độc giả (trong Trần Thị Mai Dung, Hiệu quả xuất bản sách chính trị ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Luận án Tiến sĩ ngành Xuất bản, Học viện Báo chí và Tuyên truyền).
(19) Trần Chí Đạt (2022), “Sách lý luận, chính trị, pháp luật dạng số - xu hướng và giải pháp thu hút giới trẻ”, Tạp chí điện tử Khoa học và Công nghệ Việt Nam, https://vjst.vn/sach-ly-luan-chinh-tri-phap-luat-dang-so-xu-huong-va-giai-phap-thu-hut-gioi-tre-19616.html, truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2025.
(20) Thảo Lâm (2025), “Thời đại số, mạng xã hội và văn hoá đọc”, Tạp chí điện tử Khoa học và Công nghệ Việt Nam, https://vjst.vn/thoi-dai-so-mang-xa-hoi-va-van-hoa-doc-70092.html, truy ngày 25 tháng 8 năm 2025.
(21) Khảo sát của tác giả tính đến 9/2025, 13/52 nhà xuất bản tự vận hành kinh doanh trực tuyến.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên hiện nay
- Một số lý thuyết vận dụng nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí
- Thực trạng chất lượng truyền thông bằng hình ảnh trên chuyên trang media của báo Lao Động điện tử
- Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
- Năng lực của báo chí kiến tạo trong việc nâng cao nhận thức và niềm tin nhà đầu tư chứng khoán
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
5
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
6
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tỉnh ủy Quảng Ninh lãnh đạo công tác báo chí - truyền thông hiện nay
Quảng Ninh là tỉnh tiên phong trong cả nước thực hiện hợp nhất các cơ quan báo chí - truyền thông địa phương, hình thành Trung tâm Truyền thông tỉnh Quảng Ninh - mô hình hợp nhất cấp tỉnh đầu tiên và mang tính đột phá trong lịch sử báo chí địa phương. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Tỉnh ủy, Trung tâm đã nhanh chóng phát huy hiệu quả, thích ứng linh hoạt với yêu cầu phát triển mới, góp phần nâng cao chất lượng thông tin và hình ảnh của địa phương. Bài viết phân tích thực trạng lãnh đạo công tác báo chí - truyền thông của Tỉnh ủy Quảng Ninh thời gian qua, làm rõ những kết quả nổi bật, chỉ ra hạn chế, bất cập và đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo này trong thời gian tới.
Thị trường xuất bản phẩm Việt Nam - Thực trạng và xu hướng
Thị trường xuất bản phẩm Việt Nam - Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số, ngành xuất bản đứng trước nhiều biến động sâu sắc. Xu hướng dịch chuyển từ xuất bản phẩm in sang xuất bản phẩm điện tử, sự bùng nổ của thương mại điện tử cùng sự thay đổi hành vi tiêu dùng văn hóa của độc giả đã và đang định hình lại cấu trúc thị trường xuất bản phẩm. Điều này vừa mở ra cơ hội to lớn cho sự phát triển, vừa đặt ra thách thức không nhỏ về năng lực cạnh tranh, bảo hộ bản quyền, chất lượng nội dung và khả năng thích ứng công nghệ. Trên tinh thần đó, bài viết phân tích thực trạng và dự báo xu hướng phát triển thị trường xuất bản phẩm Việt Nam, góp phần hoạch định chính sách và chiến lược thị trường xuất bản phẩm trong bối cảnh mới.
Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên hiện nay
Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên hiện nay
Bài viết phân tích số liệu khảo sát đánh giá nhu cầu về nội dung tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên trong các lĩnh vực như giải trí; học tập - nghề nghiệp; thời sự - chính trị; kinh tế; khoa học - công nghệ; y tế - sức khỏe; nhu cầu tiếp cận thông tin của sinh viên qua các loại hình báo chí - truyền thông: báo in, báo mạng điện tử, phát thanh, truyền hình. Kết quả nghiên cứu giúp nắm bắt chính xác nhu cầu thông tin báo chí của sinh viên hiện nay; góp phần làm căn cứ để các cơ quan báo chí có thể điều chỉnh nội dung, hình thức phù hợp, đáp ứng nhu cầu của giới trẻ; góp phần hỗ trợ quá trình giáo dục, định hướng giá trị và phát triển nguồn nhân lực trẻ.
Một số lý thuyết vận dụng nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí
Một số lý thuyết vận dụng nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí
Bài viết tập trung phân tích những lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí, cụ thể là: Mô hình truyền thông tuyến tính; Mô hình truyền thông tương tác; Mô hình truyền thông luân chuyển; Lý thuyết nhu cầu của Abraham Maslow; Lý thuyết sử dụng và hài lòng. Các lý thuyết này đóng vai trò là kim chỉ nam, giúp người nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí có thể định hướng phân tích, có cơ sở khoa học để xây dựng câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu, xây dựng mô hình nghiên cứu và công cụ đo lường, đưa ra giải pháp truyền thông phù hợp với nhu cầu thực tiễn của công chúng.
Thực trạng chất lượng truyền thông bằng hình ảnh trên chuyên trang media của báo Lao Động điện tử
Thực trạng chất lượng truyền thông bằng hình ảnh trên chuyên trang media của báo Lao Động điện tử
Trong giai đoạn phát triển của truyền thông báo chí, hình ảnh là một phương tiện thông tin thị giác, đóng góp nhiều tác dụng. Truyền thông hình ảnh góp phần làm thông tin trở nên sinh động, dễ tiếp cận và gia tăng sức lan tỏa tới công chúng. Hình ảnh không chỉ minh họa cho nội dung mà còn thể hiện phong cách và bản của mỗi cơ quan báo chí. Lao Động là một trong những tờ báo mạng điện tử đầu tiên có Trung tâm Truyền thông đa phương tiện và đưa chuyên trang Media lên vị trí chủ chốt, đặc biệt chú trọng đến truyền thông bằng hình ảnh. Việc nghiên cứu, đánh giá và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông bằng hình ảnh trên chuyên trang Media của báo Lao Động điện tử là yêu cầu cấp thiết. Đây không chỉ là cơ sở để nâng cao chất lượng nội dung tác phẩm báo chí đa phương tiện, mà còn góp phần khẳng định vai trò, vị thế của báo Lao Động trong hệ thống báo chí cách mạng Việt Nam.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận