Tư tưởng của V.I.Lênin về chính sách kinh tế mới trong tác phẩm "Bàn về thuế lương thực" và ý nghĩa hiện thời của nó
Trong tác phẩm Bàn về thuế lương thực, V.I.Lênin đã thể hiện tư tưởng về mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trong đó, nổi bật nhất là tư tưởng về nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (kinh tế thị trường) và tư tưởng về giữ vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường đó. Bối cảnh mới với sự phát triển của kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta càng cần giữ vững định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường. Vận dụng những tư tưởng của V.I.Lênin trong tác phẩm Bàn về thuế lương thực sẽ góp phần giữ vững định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay.
1. Bối cảnh ra đời tác phẩm Bàn về thuế lương thực
Tác phẩm Bàn về thuế lương thực ra đời vào khoảng tháng 3 đến tháng 6 năm 1921, khi đó, nước Nga Xô - viết còn non trẻ đang trong quá trình đấu tranh với thù trong giặc ngoài để bảo vệ chế độ XHCN mới được thành lập sau Cách mạng tháng Mười năm 1917. Tình thế nước Nga lúc đó vô cùng khó khăn, đặc biệt là về kinh tế. Khi nội chiến kết thúc, việc tiếp tục áp dụng chính sách cộng sản thời chiến đã không còn phù hợp khiến cho động lực phát triển kinh tế suy giảm, nhân dân lao động rơi vào tình trạng thiếu đói, sản lượng công nghiệp giảm 4 lần. Kinh tế khủng hoảng dẫn đến ổn định chính trị bị đe dọa. Nhận thức được nguy cơ đó, tại Đại hội X Đảng Cộng sản Nga (tháng 3.1921), V.I.Lênin đã đưa ra chủ trương thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP).
Cơ sở xây dựng NEP là tổng kết thực trạng kinh tế - xã hội Nga, đi sâu vào phân tích cơ cấu kinh tế và cơ cấu chính trị - xã hội để tìm ra chính sách phù hợp nhất với điều kiện lịch sử của nước Nga lúc đó. Một cơ sở nữa đó chính là sự nhận thức và đánh giá chính xác về hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản đương thời lúc đó. Đồng thời, đánh giá về vai trò của Nhà nước Xô-viết trong thời kỳ quá độ xây dựng CNXH.
Những tư tưởng của V.I.Lênin về NEP được đề cập trong nhiều tác phẩm viết ở thời kỳ này, tuy nhiên có thể nói được thể hiện rõ nhất trong tác phẩm Bàn về thuế lương thực, một bước ngoặt chuyển từ chính sách cộng sản thời chiến sang NEP. Không chỉ thừa nhận sự tồn tại của nền sản xuất hàng hóa, V.I.Lênin còn coi nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là bước trung gian, quá độ cần thiết để hoàn thiện nền tảng vật chất - kỹ thuật cho CNXH.
2. Tư tưởng về NEP trong tác phẩm Bàn về thuế lương thực - một số nội dung cơ bản
2.1. Quan niệm về các thành phần kinh tế và chính sách đối với các thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần của thời kỳ quá độ
Mở đầu tác phẩm, V.I.Lênin đưa ra nhận định về tình hình nước Nga Xô-viết lúc đó. Lúc này nước Nga đang trong thời kỳ quá độ, vì vậy, cần tính đến những nét đặc thù của hoàn cảnh này của nước Nga: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của CNTB và CNXH không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ đó.
Chúng ta hãy kể ra các thành phần kinh tế ấy:
1)Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên;
2) Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mì);
3) Chủ nghĩa tư bản tư nhân;
4) Chủ nghĩa tư bản nhà nước;
5) Chủ nghĩa xã hội”(*).
Người nhận thấy “kẻ thù” của cách mạng là những điều kiện kinh tế tiểu tư sản và tính tự phát tiểu tư sản:
+ “… những điều kiện kinh tế tiểu tư sản và tính tự phát tiểu tư sản là kẻ thù chính của chúng ta”(*).
Bởi “Giai cấp tiểu tư sản chống lại bất cứ sự kiểm kê, kiểm soát nào của nhà nước”(*); “Ở đây không phải là CNTB nhà nước đấu tranh với CNXH, mà là giai cấp tiểu tư sản cộng với CNTB tư nhân đấu tranh chống lại cả CNTB nhà nước lẫn CNXH”(*).
Như vậy, trong tình trạng vô cùng lạc hậu của nước Nga lúc đó, việc sử dụng những chính sách có tính trung gian, quá độ để xóa bỏ những tàn dư của nền sản xuất tiểu nông lạc hậu và chuẩn bị những tiền đề vật chất - kỹ thuật cho CNXH là vô cùng cần thiết. Và sử dụng CNTB nhà nước chính là một khâu trung gian như vậy.
Trong những nội dung tiếp theo của tác phẩm, V.I.Lênin tiếp tục luận chứng cho vai trò của CNTB nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước Nga Xô-viết lúc đó:
Khi đánh giá về CNTB nhà nước so với các thành phần kinh tế khác, V.I.Lênin nhận định “CNTB nhà nước sẽ là một bước tiến so với tình hình hiện nay của chúng ta”(*).
Vì vậy, việc sử dụng CNTB nhà nước như một cách giúp khắc phục những hạn chế của nền kinh tế đương thời của nước Nga Xô-viết vào những năm 1920.
“Chừng nào mà giai cấp công nhân học biết cách giữ gìn trật tự nhà nước chống tình trạng vô chính phủ của tiểu tư hữu, chừng nào mà giai cấp công nhân học được cách sắp đặt, tổ chức sản xuất với quy mô lớn toàn quốc, trên cơ sở CNTB - nhà nước, thì khi ấy - xin lỗi cho cách diễn đạt của tôi - tất cả những con át chủ bài đều nằm trong tay công nhân và sẽ đảm bảo cho CNXH được củng cố”(*).
Như vậy, theo V.I.Lênin cần sử dụng CNTB - nhà nước để khắc phục tính vô chính phủ, nhỏ lẻ của nền tiểu tư hữu và chuyển sang nền sản xuất lớn với quy mô toàn quốc. Đây chính là một đặc thù của thời kỳ quá độ.
Trước những lo ngại về việc sử dụng CNTB có thể dẫn đến nguy cơ đối với chế độ XHCN, V.I.Lênin cho rằng nỗi lo sợ này sẽ không xảy ra, và cần phải sử dụng CNTB nhà nước, bởi:
“CNTB nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế hiện nay của nước ta, đó là điều thứ nhất.
Thứ hai, CNTB nhà nước không có gì là đáng sợ đối với chính quyền Xô-viết, vì nước Xô-viết là một nước mà trong đó chính quyền của công nhân và nông dân nghèo đã được bảo đảm”(*).
Về vai trò của các thành phần kinh tế ngoài XHCN và nhà nước chuyên chính vô sản được V.I.Lênin cho rằng tất cả có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động lẫn nhau để đạt được mục tiêu xây dựng CNXH:
“Không có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có một nhà nước có kế hoạch khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo hết sức nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và phân phối sản phẩm, thì không thể nói đến CNXH được…
Đồng thời nếu không có sự thống trị của giai cấp vô sản trong nhà nước thì cũng không thể nói đến CNXH được”(*).
Về sự vận động của các thành phần kinh tế đi đến CNXH ở nước Nga lúc đó, V.I.Lênin viết:
“Từ CNTB tiểu tư sản đi đến CNTB nhà nước với quy mô lớn cũng như đi đến CNXH, đều trải qua cùng một con đường, thông qua cùng một cái trạm trung gian, đó là “sự kiểm kê và kiểm soát của toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm””(*).
V.I.Lênin cũng nhắc nhở một quan điểm có tính chất phương pháp luận trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH: không được đem CNTB đối lập một cách trừu tượng với CNXH(*).
“Chính vì nếu không trải qua một cái gì chung cho CNTB nhà nước và CNXH (sự kiểm kê, kiểm soát của toàn dân) thì không thể vượt khỏi tình trạng kinh tế hiện nay của Nga và tiến lên”. Bởi vì CNXH không phải là cái gì khác hơn là một bước tiến ngay sau chế độ độc quyền tư bản - nhà nước”(*).
“Đứng trên ý nghĩa vật chất, kinh tế, sản xuất mà xét thì chúng ta còn chưa tiến đến “phòng chờ” của CNXH, và nếu không đi qua “phòng chờ” mà chúng ta chưa đạt tới ấy thì không thể vào cửa CNXH được”(*).
Như vậy, theo V.I.Lênin, cần khôn khéo phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, kể cả CNXH và ngoài CNXH để đạt mục tiêu của thời kỳ quá độ. Đặc biệt, V.I.Lênin rất quan tâm đến việc sử dụng thành phần kinh tế có tính chất trung gian, quá độ là CNTB nhà nước, cũng như việc sử dụng CNTB tư nhân (một cách có kiểm soát, định hướng) để đạt được mục tiêu của CNXH. Điều này thể hiện ở một số luận điểm như:
“… có những biện pháp thỏa hiệp hoặc chuộc lại đối với những nhà tư bản văn minh, tức là những nhà tư bản chấp nhận “CNTB nhà nước”, có khả năng thực hiện CNTB nhà nước, tỏ ra có ích đối với giai cấp vô sản về phương diện họ là những người tổ chức thông minh và có kinh nghiệm trong những xí nghiệp hết sức to lớn thực sự đảm nhận được việc cung cấp sản phẩm cho hàng chục triệu người”(*).
“Sau khi tiến đến chỗ có thể và phải quản lý đất nước, chúng ta đã không tiếc tiền bạc để thu hút về phía mình những phần tử có văn hóa nhất do CNTB đào tạo, và dùng họ vào việc chống lại sự ly tán của những người tiểu tư hữu - thế mà gọi đó là “thỏa hiệp” thì như vậy có nghĩa là hoàn toàn không biết nghĩ gì về những nhiệm vụ kinh tế của công cuộc xây dựng CNXH”(*).
Chúng ta “không tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển của CNTB mà tìm cách hướng nó vào con đường CNTB nhà nước”. Chúng ta cần “tìm ra những phương pháp đúng giúp chúng ta hướng sự phát triển không thể tránh được (đến một trình độ nào đó và trong một thời gian nào đó) của CNTB vào con đường CNTB nhà nước; là đặt ra những điều kiện cần thiết cho công việc ấy và bảo đảm sự chuyển biến từ CNTB nhà nước sang CNXH trong một tương lai gần”(*).
Đối với kinh tế hợp tác xã:
V.I.Lênin cũng nhận định “các hợp tác xã cũng là một hình thức của CNTB nhà nước nhưng ít đơn giản hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn”. “CNTB hợp tác xã khác với CNTB tư nhân, nó là một hình thái của CNTB nhà nước”. Cần “tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên hợp và tổ chức hàng triệu người”, đây là điều lợi rất lớn cho bước quá độ tương lai từ CNTB nhà nước lên CNXH”(*).
“Chính sách hợp tác xã một khi thành công, sẽ giúp cho nền kinh tế nhỏ phát triển và sẽ tạo điều kiện thuận lợi giúp cho nền kinh tế nhỏ quá độ - trong một thời hạn không nhất định - lên nền sản xuất trên cơ sở tự nguyện kết hợp”.
Đối với kinh tế tư bản tư nhân: V.I.Lênin khẳng định học ở CNTB (các nhà tư bản) ở cách sản xuất hiệu quả. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Nga lúc đó, V.I.Lênin coi “CNTB tư nhân như là trợ thủ cho CNXH”(*). Điều này cho thấy, V.I.Lênin không xem nhẹ kinh tế tư bản tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần của thời kỳ quá độ. V.I.Lênin cho rằng: “Một người cộng sản thông minh không sợ phải học tập một chuyên gia quân sự, mặc dầu 9/10 chuyên gia quân sự đều có thể phản lại chúng ta bất cứ lúc nào. Một người cộng sản thông minh không sợ phải học một nhà tư bản (dầu là học một nhà tư bản được tô nhượng,… hay một nhà tư bản nhỏ tham gia hợp tác xã), tuy rằng nhà tư bản cũng chẳng khác gì anh chuyên gia quân sự. Trong hồng quân chúng ta biết cách phát hiện ra những kẻ phản bội trong các chuyên gia quân sự, nhận ra những chuyên gia nào chân thật và tận tâm, và tính tổng cộng, sử dụng được hàng nghìn chuyên gia quân sự… ”(*). Như vậy, V.I.Lênin cho rằng cần sử dụng thông minh các chuyên gia tư sản để vừa phát huy được năng lực của họ nhưng cũng cảnh giác đề phòng sự phản bội trong đội ngũ này (nếu có).
Một điểm đáng chú ý trong quan điểm của V.I.Lênin khi bàn về việc phát huy thành phần kinh tế ngoài XHCN, đó là các điều kiện để tránh nguy cơ chệch hướng TBCN. Bởi trong quá trình sử dụng các thành phần kinh tế này luôn cần có những điều kiện, cách thức riêng. Cụ thể, chế độ tô nhượng, tức là chính quyền công nông cho các nhà tư bản thuê lại đất đai hoặc mỏ tài nguyên để khai thác rồi đóng thuế cho chính quyền. Đây là cách để học CNTB, đồng thời cũng giúp khôi phục sản xuất, cải thiện đời sống công nông lúc đó. Để làm được điều này, V.I.Lênin cho rằng cần có sự quản lý sát sao của nhà nước XHCN: “Chính quyền theo dõi sao cho người tư bản đi thuê tôn trọng hợp đồng, sao cho hợp đồng có lợi cho chúng ta, sao cho tình cảnh của công nhân và nông dân được cải thiện (...)”(*).
Ở một đoạn khác, cũng về vấn đề sử dụng CNTB, V.I.Lênin viết: “Mời bọn tư bản đến thì có nguy hiểm chăng? Như thế há chẳng phải là phát triển CNTB ư? Đúng, như vậy là phát triển CNTB, nhưng không nguy hiểm, vì chính quyền vẫn nằm trong tay công nhân và nông dân, và quyền sở hữu của bọn địa chủ và tư bản không được khôi phục. Một tô nhượng là một loại hợp đồng cho thuê. Người tư bản trở thành người đi thuê một phần tài sản của nhà nước, theo một hợp đồng và trong một thời gian nhất định, nhưng y không trở thành kẻ sở hữu được. Quyền sở hữu vẫn là của nhà nước”(*).
Như vậy, để sử dụng CNTB, V.I.Lênin cho rằng cần có sự kiểm soát của nhà nước XHCN và không để cho sở hữu rơi vào tay tư sản, tức là không chuyển sở hữu trở thành chế độ tư hữu TBCN. Điều này khẳng định, V.I.Lênin không hề xem nhẹ vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất để giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của thời kỳ quá độ. Đây là một yêu cầu quan trọng để giúp giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần. Do đó, chúng ta cần hết sức lưu ý điều này.
2.2. Tập trung trước tiên vào nông nghiệp, thực hiện chính sách thuế lương thực thay cho chính sách trưng thu
Ở phần trên, khi trả lời nền kinh tế hiện thời cần tổ chức như thế nào, V.I.Lênin đã đưa ra mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (định hướng XHCN - tuy Người không dùng đầy đủ khái niệm này nhưng trong tư tưởng của Người định hướng XHCN thể hiện rất rõ).
Tiếp đến trả lời cho câu hỏi thứ hai: Vậy cần phải tập trung trước hết vào lĩnh vực nào, chọn lĩnh vực nào để làm khâu đột phá? Trong bối cảnh nước Nga Xô-viết những năm 1920, V.I.Lênin chỉ ra đó phải là lĩnh vực nông nghiệp. Bởi đây là lĩnh vực trực tiếp đang vô cùng khó khăn khiến cho đời sống công nông bị ảnh hưởng lớn. Hơn nữa, trong thời kỳ chiến tranh, nhà nước thực hiện trưng thu lương thực (chính sách cộng sản thời chiến). Nay chính sách này không còn phù hợp với điều kiện hòa bình, khôi phục sản xuất, quá độ xây dựng CNXH.
Chính sách này cũng giúp thành phần kinh tế tiểu nông phát huy vai trò trong điều kiện chưa phát triển được nền đại công nghiệp XHCN. Bởi lúc đó “cảnh khốn cùng và tàn phá đã lên đến một mức khiến chúng ta không thể phục hồi ngay lập tức nền đại sản xuất công nghiệp XHCN nhà nước”(*). Vì thế, V.I.Lênin chỉ ra: “Giai cấp vô sản, với tư cách là giai cấp lãnh đạo, phải biết hướng chính sách vào việc giải quyết những vấn đề cấp thiết nhất, mấu chốt nhất”(*); “Phải làm một việc dễ hơn là phục hồi công nghiệp nhỏ”(*).
Về vai trò của chính sách thuế lương thực, V.I.Lênin chỉ rõ hơn: “Thuế lương thực sẽ giúp cải thiện nền kinh tế nông dân. Bây giờ nông dân sẽ bắt tay vào việc một cách yên tâm và hăng hái hơn, đó là chính yếu và chủ yếu”(*). Và khi nông nghiệp phát triển mạnh, sẽ “đổi các sản phẩm nông nghiệp thừa lấy các sản phẩm công nghiệp”(*).
Thực chất của chính sách thuế lương thực:
Theo V.I.Lênin, đó là một hình thức quá độ từ chế độ cộng sản thời chiến sang chế độ sản phẩm XHCN bình thường, là một bước đi vô cùng cần thiết trong quá trình chuyển từ chế độ cộng sản thời chiến sang quá độ xây dựng CNXH.
Chính sách sẽ được thực hiện thế nào? Trong tác phẩm, V.I.Lênin chỉ rõ: Số lượng thuế nộp căn cứ vào diện tích đất, nhân khẩu trong gia đình, tình trạng được mùa; Hộ nông dân nghèo được ưu đãi; Tất cả các hộ nông dân sau khi nộp thuế có thể tự do trao đổi phần lương thực thừa; Cho phép hộ nông dân thuê ruộng đất trong 3 năm và cho phép thuê mướn người lao động. (Luật sử dụng đất và lao động năm 1922).
Như vậy, với việc thay chính sách trưng thu bằng thuế lương thực, khích lệ nông dân hăng hái sản xuất, cùng những chính sách sử dụng thông minh các thành phần kinh tế ngoài - XHCN để phát huy các thành phần này trong quá trình khôi phục kinh tế, bắt đầu xây dựng CNXH, V.I.Lênin đã thể hiện rõ tư duy biện chứng duy vật tuyệt vời của mình với quan điểm phải xem xét cụ thể những tình hình cụ thể để có chính sách phù hợp nhất. Đây chính là bài học về phương pháp luận chúng ta cần học hỏi khi nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của V.I.Lênin nói chung cũng như tác phẩm Bàn về thuế lương thực nói riêng.
3. Ý nghĩa hiện thời tư tưởng của V.I.Lênin về NEP trong tác phẩm Bàn về thuế lương thực
Có thể nói, trong tác phẩm Bàn về thuế lương thực - một mặt bàn về một vấn đề hết sức cụ thể của chính sách kinh tế - thuế lương thực, nhưng mặt khác đã thể hiện quan điểm của V.I.Lênin về cách tổ chức nền kinh tế trong thời kỳ quá độ xây dựng CNXH - NEP. Do đó, tác phẩm không chỉ chứa đựng giá trị lịch sử - cụ thể mà còn có những giá trị bền vững vượt thời gian. Điều này thể hiện ở phương pháp luận mà V.I.Lênin sử dụng khi viết tác phẩm cũng như ở tư tưởng về NEP của Người.
Một cách cụ thể, ý nghĩa hiện thời của tác phẩm thể hiện ở một số nội dung chính sau:
Thứ nhất, trong một nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, khủng hoảng sau chiến tranh, một nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lạc hậu quá độ lên CNXH, cần thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. Trong cơ cấu kinh tế ấy, có cả thành phần kinh tế XHCN và kinh tế ngoài - XHCN, tuy nhiên, cần sử dụng, phát huy hợp lý các thành phần kinh tế ngoài - XHCN để định hướng chúng, để tạo dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, chuyển đổi nền kinh tế từ sản xuất nhỏ tiểu nông sang sản xuất lớn XHCN trên quy mô toàn quốc. Trong quá trình đó, cần giữ vững định hướng XHCN, thể hiện ở một số điểm chính như: phát huy vai trò quản lý của nhà nước XHCN, thực hiện kiểm kê kiểm soát toàn dân, không để sở hữu tư liệu sản xuất rơi vào tay tư sản và địa chủ, kiên quyết chống nạn đầu cơ và tệ quan liêu, chủ nghĩa cơ hội, dân túy phản động...
Thứ hai, trong điều kiện cụ thể cần nhanh chóng thay đổi tư duy trong quá trình xây dựng chính sách để chính sách phù hợp với thực tiễn. Cụ thể ở đây là bước chuyển từ chính sách cộng sản thời chiến (trưng thu lương thực) sang chính sách của thời kỳ quá độ (thuế lương thực, tô nhượng, kinh tế nhiều thành phần,…). Cần tập trung trọng điểm vào lĩnh vực cốt yếu nhất để từ đó lan tỏa sang các lĩnh vực khác. Cụ thể, ở các nước nông nghiệp sản xuất nhỏ là chủ yếu, cần tập trung phát triển nông nghiệp để từ đó làm tiền đề cho phát triển công nghiệp. Về mặt phương pháp luận, đây chính là quan điểm lịch sử - cụ thể rất đặc trưng của tư duy biện chứng duy vật, là sự phân tích cụ thể những hoàn cảnh cụ thể.
Trong quá trình đổi mới, xây dựng CNXH ở Việt Nam, Đảng ta cũng đã vận dụng những tư tưởng này của V.I.Lênin trong đường lối của mình. Thể hiện ở đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây chính là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, vận hành theo các quy luật của kinh tế thị trường, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế theo định hướng XHCN (kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản). Đảng ta cũng chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, kể cả từ thành phần kinh tế tư bản tư nhân nước ngoài nhưng có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước XHCN và không để sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu rơi vào tay tư sản. Đây cũng chính là thể hiện sự vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ. Đảng ta cũng chủ trương thực hiện khoán nông nghiệp, công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, đây chính là thể hiện việc chọn lĩnh vực trọng điểm phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Nhờ đó, quá trình đổi mới đã giải phóng sức sản xuất, đất nước thoát khỏi khủng hoảng, chuyển từ nước nghèo kém phát triển sang nước có thu nhập trung bình.
Hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo toàn dân tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu và vận dụng và phát triển sáng tạo những tư tưởng định hướng của V.I.Lênin trong các tác phẩm kinh điển của Người nói chung cũng như trong tác phẩm Bàn về thuế lương thực nói riêng để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, xây dựng CNXH ở nước ta./.
____________________________________
(*) Các câu trích được dẫn trong tác phẩm Bàn về thuế lương thực, V.I.Lênin, Toàn tập, T.43, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.(p.244ff), tr.247, 248, 249, 252, 253, 254, 256, 257, 259, 261, 262, 263, 265, 268, 271, 272, 280, 281, 293, 298, 300.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông tháng 4.2021
Bài liên quan
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
- Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
- Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
- Đôi nét về triết học ngoài mác-xít hiện đại
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 56: Dấu ấn về mùa thu lịch sử
- 2 Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
- 3 10 thành tựu nổi bật của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong 10 năm (2014 – 2024)
- 4 Chuẩn cơ sở giáo dục đại học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền: Đánh giá và giải pháp, kiến nghị
- 5 Giáo dục văn hoá doanh nghiệp cho người lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa - góc nhìn từ thực tiễn thành phố Hà Nội hiện nay
- 6 Quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới qua báo điện tử VietnamPlus
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Hội nghị Tổng kết việc triển khai các hoạt động kỷ niệm 75 năm truyền thống Học viện (1949-2024) và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất
Ngày 26/9/2024, tại Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức tổng kết việc triển khai các hoạt động kỷ niệm 75 năm truyền thống Học viện (1949-2024) và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất. GS,TS Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương dự và chủ trì hội nghị.
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, mặc dù không để lại những tác phẩm chuyên nghiên cứu về quản lý phát triển xã hội, nhưng qua các tác phẩm về kinh tế - chính trị, chính trị - xã hội của các ông, có thể rút ra những luận điểm cơ bản về quản lý phát triển xã hội. Các luận điểm này giúp các nhà quản lý xã hội thấy được bức tranh toàn cảnh xã hội một cách duy vật, cụ thể, với tính cách là kết quả hoạt động thực tiễn xã hội của con người.
Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
Sau khi hai tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau chuyển bị về mặt lý luận cho Cách mạng dân chủ tư sản Pháp ra đời người ta thường nói đến thuộc tính pháp quyền gắn liền với nền dân chủ tư sản, người ta nói đến nhà nước pháp quyền tư sản, hệ thống dân chủ tư sản. Đến chủ nghĩa xã hội thì thuộc tính pháp quyền này lại ít được nhắc đến. Liệu chủ nghĩa xã hội có mang thuộc tính pháp quyền hay không và thuộc tính pháp quyền này khác với thuộc tính pháp quyên dân chủ tư sản như thế nào?
Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, lần đầu tiên vấn đề nhà nước được V.I.Lênin trình bày một cách có hệ thống. Giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm là đã làm sáng tỏ tính quy luật trong sự sinh thành, vận động và phát triển, đưa ra những dự báo khoa học về xu hướng và điều kiện về sự tự tiêu vong của nhà nước trong tiến trình tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị khoa học, cách mạng và tính thời sự. Trong tình hình hiện nay, nắm vững thực chất và vận dụng tư tưởng của tác phẩm là cơ sở vững chắc để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vừa là nhiệm vụ thường xuyên, vừa là công việc lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp bởi “đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất của giai cấp vô sản”(1). Bài viết nghiên cứu tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, phân tích ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc và vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin vào cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng ở nước ta hiện nay.
Bình luận