Vai trò, đặc điểm của đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1. Quan niệm về đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam
Đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam rất đa dạng phong phú, gồm nhiều loại. Mỗi giai tầng, lĩnh vực có thể phân loại đội ngũ đảng viên thành các loại hình khác nhau. Theo từng cách phân loại sẽ có các loại hình đảng viên tương ứng với cách phân loại đó.
Trong giai cấp công nhân có thể phân thành những loại hình đảng viên ở phạm vi hẹp hơn. Phân loại theo loại hình doanh nghiệp sẽ có các đảng viên trong các doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp quân đội; đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước. Trong loại hình đảng viên này, nếu phân loại chi tiết hơn sẽ có đảng viên trong các doanh nghiệp, công ty cổ phần, đảng viên trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài, đảng viên trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh. Phân loại theo vị trí việc làm, sẽ có đảng viên là lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp, đảng viên làm việc hành chính, kế toán, bảo vệ ở các doanh nghiệp, đảng viên trực tiếp sản xuất. Phân lại theo phương thức làm việc, sẽ có đảng viên lao động chân tay, đảng viên lao động trí óc…
Căn cứ vào Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta có thể quan niệm: đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương thuộc các loại hình sản xuất, kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, gắn bó mật thiết với công nhân của doanh nghiệp và nhân dân ở nơi cư trú; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong giai cấp công nhân.
Những người là đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam, tức là đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm việc và sinh hoạt đảng tại các tổ chức đảng trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp; hoặc có thể sinh hoạt tại tổ chức đảng ở khu dân cư.
Là đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam họ phải đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn đảng viên được ghi trong Điều lệ Đảng. Tức là, họ là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Họ phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao của doanh nghiệp và của tổ chức đảng trong doanh nghiệp. Họ phải có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với công nhân trước hết với công nhân của doanh nghiệp, đồng thời họ phải gắn bó mật thiết với nhân dân ở nơi cư trú; phải phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, trước hết là kỷ luật của tổ chức đảng trong doanh nghiệp mà họ sinh hoạt; phục tùng kỷ luật của doanh nghiệp đó; phải giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng, cụ thể là đoàn kết, thống nhất trong tổ chức đảng trong doanh nghiệp họ sinh hoạt; đoàn kết công nhân ở doanh nghiệp đó.
Có thể hiểu đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam là tập hợp các đảng viên - công nhân thành một lực lượng tiên phong, tiêu biểu, được tổ chức chặt chẽ, giữ vai trò lãnh đạo trực tiếp giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Vai trò của đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Một là, đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng nòng cốt, trực tiếp xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn hiện nay.
Đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân là một trong những nhân tố quyết định việc xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về số lượng, cơ cấu, về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đội ngũ đảng viên trực tiếp tham gia xây dựng các chủ trương, nghị quyết của chi bộ, đảng bộ trong các doanh nghiệp về xây dựng giai cấp công nhân của doanh nghiệp lớn mạnh, trực tiếp thực hiện và lãnh đạo công nhân thực hiện. Các đảng viên trong các doanh nghiệp là nòng cốt trong việc phát động và duy trì các phong trào cách mạng của công nhân, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với công nhân, trước hết là mối quan hệ giữa chi bộ, đảng bộ với công nhân trong các doanh nghiệp. Qua đó, đội ngũ công nhân ở từng doanh nghiệp được xây dựng vững mạnh, hoàn thành nhiệm vụ sẽ tạo nên chất lượng của giai cấp công nhân đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay, từ đó giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Hai là, đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng đi tiên phong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị của đảng ủy cấp trên; nghị quyết của chi bộ, đảng bộ về thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi bộ, đảng bộ nơi các đảng viên sinh hoạt và hoạt động; là một trong những nhân tố quyết định việc hiện thực hóa đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị đó đi vào cuộc sống.
Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị của đảng ủy cấp trên đều được đưa về các chi bộ, đảng bộ trong các doanh nghiệp để thực hiện. Với vai trò tiên phong, trách nhiệm, nhiệm vụ của mình, đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân là những người đi tiên phong tuyên truyền, thuyết phục, vận động và tổ chức công nhân ở doanh nghiệp thực hiện. Đội ngũ đảng viên này, còn có vai trò, tác dụng nhất định đối với công tác vận động các giai cấp, tầng lớp xã hội tham gia thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ba là, đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam là nhân tố quyết định công tác xây dựng Đảng và xây dựng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị.
Vai trò quan trọng của đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam đối với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, trước hết là việc tăng cường phát triển đảng viên trong giai cấp công nhân; tăng thêm thành phần công nhân trong đội ngũ đảng viên. Việc làm này có vai trò, tác dụng to lớn, góp phần nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện hiện nay.
Đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân có vai trò quan trọng đối với xây dựng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị. Các đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam trải qua quá trình học tập, rèn luyện trở thành cán bộ, cung cấp cho Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp những đảng viên là công nhân, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị.
Bốn là, đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam là nhân tố quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của doanh nghiệp, nơi đảng viên làm việc.
Các đảng viên trong giai cấp công nhân cùng các chi bộ, đảng bộ của doanh nghiệp, nơi họ làm việc là nhân tố quan trọng đối với việc xây dựng, nâng cao chất lượng hoạt động của tập thể lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp, các đoàn thể chính trị - xã hội trong doanh nghiệp; nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân… Nhờ đó, việc thực hiện nhiệm vụ của doanh nghiệp thuận lợi và hiệu quả.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp quân đội, các chi bộ, đảng bộ trong các doanh nghiệp lãnh đạo trực tiếp mọi hoạt động của doanh nghiệp từ xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ đến lãnh đạo sản xuất kinh doanh và lãnh đạo hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội trong doanh nghiệp. Các đảng viên cùng các chi bộ, đảng bộ xây dựng ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết về các hoạt động này, chịu trách nhiệm về hoạt động, sự phát triển của doanh nghiệp và của các đoàn thể chính trị - xã hội trong doanh nghiệp. Đội ngũ đảng viên công nhân cùng các chi bộ, đảng bộ trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp quân đội và các loại hình tương tự khác là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp đã cổ phần hóa, vai trò của đảng viên trong các doanh nghiệp này tùy thuộc vào tỷ lệ vốn nhà nước trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vai trò của đảng viên ở các doanh nghiệp, tùy thuộc vào tỷ lệ vốn trong nước ở doanh nghiệp đó. Đối với doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân, đảng viên và chi bộ trong các doanh nghiệp này có vai trò quan trọng làm công tác chính trị - tư tưởng trong công nhân, lãnh đạo hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội trong doanh nghiệp, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Năm là, đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam là nhân tố quyết định trực tiếp việc xây dựng chi bộ, đảng bộ, nơi các đảng viên sinh hoạt trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của chi bộ, đảng bộ.
Mọi chủ trương, nghị quyết xây dựng chi bộ, đảng bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức và về lãnh đạo doanh nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ; nghị quyết lãnh đạo các tổ chức của chi bộ, đảng bộ nơi đảng viên sinh hoạt và làm việc… đều do các đảng viên tham gia xây dựng và là người trực tiếp thực hiện. Qua đó góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, đảng bộ ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ được giao.
3. Đặc điểm của đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Một là, số lượng đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số đảng viên của Đảng và đang có xu hướng giảm.
Trong thời kỳ đổi mới, số lượng đảng viên của Đảng nhìn chung tăng dần và tăng nhanh hơn trong những năm gần đây: 2.027.638 đảng viên (năm 1986); lên 2.165.337 (năm 1989) và 4.095.052 (năm 2012)(1) lên 4.921.129 đảng viên (năm 2017) lên 5,2 triệu (năm 2019)(2). Số lượng đảng viên trong giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số đảng viên của Đảng và lại đang có xu hướng giảm: số lượng đảng viên trong giai cấp công nhân chiếm 14, 25% tổng số đảng viên của Đảng (năm 1993) giảm xuống 13,54% (năm 1997) và xuống 7,04% (năm 2012)(3). Theo số liệu của Ban Tổ chức Trung ương, tính đến năm 2019, số lượng đảng viên trong doanh nghiệp và hợp tác xã ở nước ta là 422.381 đảng viên.
Hai là, tuy số lượng đảng viên trong giai cấp công nhân có xu hướng giảm, song số lượng đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước lại có xu hướng tăng, số lượng doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước có tổ chức đảng chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước.
Số lượng đảng viên trong các doanh nghiệp nhà nước đang có xu hướng giảm do thực hiện chủ trương của Đảng về sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hóa các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp nhà nước chuyển thành các doanh nghiệp, công ty cổ phần và số lượng khá lớn đảng viên ở các doanh nghiệp nhà nước trở thành đảng viên của các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước. Một số đảng viên được kết nạp trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước những năm qua, làm cho số lượng đảng viên trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước có xu hướng tăng lên. Cụ thể: số lượng đảng viên trong các doanh nghiệp nhà nước chiếm: 14,1% (năm 1995); 11,8% (năm 1995); 11,1% (năm 1997); 4,0% (năm 2012). Số lượng đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước chiếm: 0,15% (năm 1993); 2,42% (năm 1996); 2,44% (năm 1997); 3,07% (năm 1998); 3,04% (năm 2012)(4).
Số lượng doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước có tổ chức đảng chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước, chủ yếu là các doanh nghiệp, công ty cổ phần, tức là các doanh nghiệp công ty này do doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa. Không chỉ tỷ lệ tổ chức đảng thấp mà việc chú trọng phát triển tổ chức đảng, đảng viên cũng không đồng đều. Hiện tại, thống kê trong cả nước cho thấy, hầu hết tổ chức đảng, đảng viên đang tập trung tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước, với 68,6% số doanh nghiệp có dưới 50% vốn nhà nước có tổ chức đảng. Trong khi đó, tỷ lệ tổ chức đảng trong doanh nghiệp tư nhân mới đạt 0,86%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2,94%; hợp tác xã và liên minh hợp tác xã đạt 6,02%; đơn vị sự nghiệp công lập đạt 2,49%... Phần lớn tổ chức đảng là chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở. Công tác phát triển đảng viên đã được quan tâm nhưng kết quả còn rất thấp, tỷ lệ đảng viên chỉ chiếm 0,78% tổng số lao động. Trung bình một tổ chức đảng mới có 14 đảng viên(5).
Ba là, nguồn gốc xuất thân của đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân rất đa dạng, từ nhiều thành phần kinh tế; một số đảng viên trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước không tham gia sinh hoạt đảng ở chi bộ trong doanh nghiệp.
Trong thời kỳ đổi mới, cơ cấu đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân biến đổi nhanh chóng. Đảng viên trong các loại hình doanh nghiệp góp phần tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng đối với công nhân và doanh nghiệp. Đặc biệt, cùng với việc hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức là việc hình thành, phát triển những đảng viên là công nhân trí thức. Đây là bộ phận góp phần quan trọng vào sự lãnh đạo của Đảng đối với đảng viên trong giai cấp công nhân hiện nay.
Tuy nhiên, vẫn còn một số đảng viên là công nhân trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, nhất là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là đảng viên, nhưng không tham gia sinh hoạt đảng ở chi bộ trong doanh nghiệp, mà sinh hoạt đảng ở tổ chức đảng nơi cư trú. Do trong doanh nghiệp không có tổ chức đảng, nên số đảng viên này phải sinh hoạt đảng ở tổ chức đảng nơi cư trú. Bên cạnh đó, một số đảng viên khi được nhận vào làm việc tại các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước đã không nộp giấy giới thiệu sinh hoạt đảng, coi như bỏ Đảng.
Bốn là, đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân Việt Nam chủ yếu xuất thân từ nông dân.
Trong thời kỳ đổi mới, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt, cơ cấu nền kinh tế nước ta cũng chuyển dịch ngày càng mạnh theo hướng giảm dần tỷ trọng kinh tế nông nghiệp và tăng dần tỷ trọng kinh tế công nghiệp, xây dựng, dịch vụ trong tổng giá trị kinh tế, nhất là từ khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đi liền với quá trình này, nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và hoạt động, thu hút số lượng lớn lao động nông nghiệp, dẫn đến số lượng công nhân tăng lên khá nhanh theo đó cũng bộc lộ những hạn chế. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ điều này: “… đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống”(6) nên trình độ mọi mặt, nhất là chuyên môn, nghề nghiệp còn nhiều hạn chế, bất cập. Tác phong, kỷ luật lao động của nhiều công nhân chưa nghiêm. Bên cạnh đó, cách nghĩ, tầm nhìn, phong cách, lề lối làm việc của người nông dân tiểu nông còn chi phối khá mạnh trong hoạt động của nhiều công nhân.
Năm là, cấp ủy cấp trên của tổ chức đảng trong doanh nghiệp, nơi đảng viên - công nhân sinh hoạt và công tác có những đặc điểm đặc thù.
Tùy theo quy mô và năng lực hoạt động của doanh nghiệp và quy định của Đảng, tổ chức đảng trong doanh nghiệp trực thuộc các cấp ủy khác nhau.
Tổ chức đảng trong doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn cấp huyện trực thuộc cấp ủy cấp huyện: Cấp ủy cấp huyện ở nước ta rất đa dạng, phong phú về địa bàn hoạt động, đối tượng lãnh đạo, nhiệm vụ chính trị, chẳng hạn: cấp huyện ở khu vực miền núi, có đối tượng lãnh đạo chủ yếu là dân tộc thiểu số, kinh tế rừng, điều kiện đi lại khó khăn; cấp ủy cấp huyện ở đồng bằng, đối tượng lãnh đạo chủ yếu là người dân tộc Kinh, trình độ văn hóa khá cao, kinh tế nông nghiệp đang chuyển dịch mạnh sang sản xuất lớn, sản phẩm sạch, chất lượng cao… Cấp uỷ cấp huyện ở các thành phố, thị xã, đối tượng lãnh đạo của cấp ủy đa dạng, nhiệm vụ chính trị chủ yếu là lãnh đạo kinh tế thị trường phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý đô thị… Trong khi đó, nhiệm vụ chủ yếu của các doanh nghiệp là sản xuất kinh doanh, hạn chế đáng kể sự tiếp nhận sự lãnh đạo của cấp ủy cấp huyện. Các cấp ủy cấp huyện tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị chủ yếu, chưa có nhiều kinh nghiệm lãnh đạo các doanh nghiệp trên địa bàn trong điều kiện hiện nay. Các doanh nghiệp lại rất đa dạng, nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh nên gặp những khó khăn nhất định trong hoạt động.
Tổ chức đảng trong doanh nghiệp lớn trên địa bàn cấp tỉnh trực thuộc đảng ủy khối doanh nghiệp cấp tỉnh (ở những tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có đảng bộ khối doanh nghiệp tỉnh, thành phố); ở khá nhiều tỉnh đã hợp nhất đảng bộ khối các cơ quan tỉnh với đảng bộ khối doanh nghiệp tỉnh và gọi là đảng bộ khối các cơ quan - doanh nghiệp tỉnh; ở một số tỉnh từ trước đến nay không thành lập đảng bộ khối doanh nghiệp tỉnh, chỉ thành lập đảng bộ khối các cơ quan tỉnh. Các tỉnh này, tổ chức đảng trong các doanh nghiệp lớn trên địa bàn trực thuộc đảng ủy khối các cơ quan tỉnh và hiện nay gọi là đảng ủy khối các cơ quan - doanh nghiệp tỉnh. Những tổ chức đảng trong doanh nghiệp lớn trên địa bàn trực thuộc đảng ủy khối doanh nghiệp cấp tỉnh hoặc đảng ủy khối các cơ quan tỉnh - doanh nghiệp cấp tỉnh do ban thường vụ tỉnh ủy quyết định.
Mô hình tổ chức đảng cấp trên của các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp này chưa thống nhất trong các tỉnh, thành phố, lại luôn biến động trong những năm gần đây. Các tỉnh, thành phố thành lập đảng bộ khối doanh nghiệp tỉnh, thành phố, đảng ủy các doanh nghiệp có thuận lợi trong hoạt động, tiếp nhận được sự lãnh đạo sâu sát của đảng ủy khối doanh nghiệp tỉnh, thành phố, rất thuận lợi cho hoạt động. Các tỉnh, thành phố khác thành lập đảng bộ khối cơ quan - doanh nghiệp tỉnh; sự lãnh đạo của đảng ủy khối này đối với các doanh nghiệp còn nhiều yếu kém, có nơi về thực chất bộ phận lãnh đạo, phụ trách các đảng bộ doanh nghiệp có nhiều biểu hiện là cơ quan đảng vụ. Điều này ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của các doanh nghiệp.
Tổ chức đảng trong các tổng công ty, tập đoàn kinh tế trực thuộc Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương: những tổ chức đảng thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương do Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định. Các tổ chức đảng này tiếp nhận kịp thời chủ trương của Đảng và sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư nên rất thuận lợi trong hoạt động.
Tổ chức đảng trong các doanh nghiệp quân đội, công an: các tổ chức đảng này trực thuộc cấp ủy cấp trên, do Đảng ủy Công an Trung ương và Quân ủy Trung ương quyết định. Các tổ chức đảng cấp trên, một mặt lãnh đạo các doanh nghiệp quân đội, công an thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh theo đường lối, quan điểm chung của Đảng, mặt khác lại phải tuân thủ quy định của Đảng đối với các doanh nghiệp, quân đội, công an và trọng tâm là sản xuất hoặc sản xuất, kinh doanh phải đặt lên hàng đầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của lực lượng vũ trang./.
____________________________________
(1), (3), (4) Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt (Đồng chủ biên) (2003), Làm người cộng sản trong giai đoạn hiện nay, Nxb. CTQG, tr.110, 114, 114.
(2) Nghĩa Nhân (2019), Đảng Cộng sản Việt Nam hiện có 5,2 triệu đảng viên, https://plo.vn, ngày 25.12.2019.
(5) Xây dựng tổ chức đảng trong các đơn vị khu vực kinh tế ngoài nhà nước (kỳ 2), https://nhandan.com.vn, ngày 05.8.2019.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp Trung ương khóa X, Nxb. CTQG, tr.45.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông tháng 3.2021
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Một số yếu tố tác động đến đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay
Những biến đổi trong đời sống xã hội cùng với những thành tựu của Cách mạng 4.0 và sự phát triển mạnh mẽ của internet và mạng xã hội đã tạo ra môi trường thông tin rộng lớn, dễ tiếp cận nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro như tin giả, thông tin sai lệch. Điều này tác động sâu sắc đến công tác định hướng dư luận xã hội ở nước ta hiện nay. Việc đổi mới phương pháp định hướng dư luận xã hội là một đòi hỏi tất yếu để góp phần vào xây dựng một môi trường thông tin lành mạnh, duy trì sự ổn định xã hội, củng cố niềm tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận