Xây dựng chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp - phương thức hiệu quả trong công tác vận động giai cấp nông dân Việt Nam hiện nay
Việt Nam là nước có quy mô dân số nông nghiệp lớn. Theo số liệu tổng điều tra dân số (1.4.2019), cả nước có 96,2 triệu người, trong đó dân số nông thôn là 63,1 triệu, chiếm tỷ lệ 65,6% tổng dân số cả nước; lao động nông thôn có 31,9 triệu người, chiếm 65,3% lực lượng lao động xã hội; lao động nông nghiệp còn 19,2 triệu người, chiếm 35,4% lao động xã hội. Cả nước có tổng số 26,8 triệu hộ gia đình, trong đó số hộ trên địa bàn nông thôn là hơn 17 triệu, số hộ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp là 8,6 triệu(1).
Điều đó cho thấy, hiện nay nước ta cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp; nông dân chiếm tỉ lệ lớn trong xã hội. Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn chính là sự quan tâm, làm cho đời sống nông dân ngày càng được nâng cao hơn. Điều này sẽ quyết định đến thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng đã ta khẳng định: “Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới”(2) và quán triệt tư tưởng: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, thắng lợi của cách mạng là do sự phấn đấu, hy sinh và trí thông minh, sáng tạo của hàng triệu nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và những người trí thức cách mạng”(3), do đó, khi thực hiện đổi mới đất nước, Đảng cũng chỉ rõ phải đổi mới công tác dân vận để tập hợp và phát huy được sự đoàn kết, sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là nông dân trong xây dựng và phát triển đất nước.
1. Đổi mới nội dung phương thức vận động nông dân với mô hình chi hội nông dân tập thể, tổ hội nông dân tập thể
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước mà Đảng và Nhà nước ta đề ra, nông nghiệp, nông thôn nước ta liên tục phát triển, góp phần quan trọng ổn định tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của nhân dân. Kinh tế nông thôn phát triển theo hướng nâng cao giá trị sản xuất hàng hoá nông sản, dịch vụ, phát triển ngành nghề; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất; đời sống vật chất, tinh thần của cư dân các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Cùng với đó, hệ thống chính trị ở nông thôn cũng được tăng cường, dân chủ cơ sở được phát huy, vị thế của giai cấp nông dân được nâng cao, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tuy nhiên, những thách thức mới trong nông nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn không ngừng gia tăng, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Một số vùng nông thôn đang phát triển thiếu sự quản lý về quy hoạch; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém; môi trường nông thôn có xu hướng ô nhiễm cao, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai thấp; đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn dù đã được cải thiện đáng kể, nhưng vẫn còn ở mức thấp; chênh lệch giàu - nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng còn lớn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc; các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn đổi mới chậm, chưa đủ sức phát triển mạnh sản xuất hàng hóa; công nghiệp, dịch vụ nông thôn chậm phát triển, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn...
Sản xuất nông nghiệp chủ yếu vẫn mang tính nhỏ lẻ, manh mún, chưa tạo ra sản phẩm đồng nhất về chất lượng, đảm bảo sự an toàn đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Các hộ sản xuất chưa chú ý tới việc liên kết nhóm hộ mà vẫn làm theo tự phát, thói quen, kinh nghiệm, lạc hậu nên chưa tạo được vùng sản xuất tập trung, dòng sản phẩm đủ lớn và ổn định. Thiếu vốn, thiếu nguồn nguyên liệu, thiếu quy trình, điều kiện chế biến sản phẩm đáp ứng yêu cầu; tình trạng người sản xuất phá vỡ liên kết khi giá sản phẩm gia tăng đột biến, tự ý bán phá giá cho các tư thương gom hàng khi giá mua cao hơn thường xuyên xảy ra... dẫn đến tình trạng sản xuất không ổn định, đời sống nông dân nhiều bấp bênh... là những vấn đề bức thiết đặt ra cho công tác dân vận nông dân của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Với vai trò tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân, có chức năng, nhiệm vụ tập hợp, tuyên truyền, giáo dục, vận động nông dân thực hiện tốt các đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần quan trọng hoàn thành các mục tiêu của cách mạng nước nhà. Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội mới, nhận thấy cách thức tổ chức, tập hợp, vận động nông dân trong các chi hội nông dân cơ sở được tính theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn đã và đang bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế như: số hội viên trong các chi hội đông nên khó tập hợp, tổ chức địa điểm sinh hoạt; khó xây dựng được nội dung sinh hoạt phù hợp với tất cả hội viên trong cùng một chi hội, tổ hội và nội dung sinh hoạt thường không thiết thực, hiệu quả thấp bởi hội viên nông dân sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau; những vấn đề khó khăn, vướng mắc của nông dân không được định hướng giải quyết kịp thời nên nông dân không tha thiết tham gia Hội…
Phát huy tính chủ động sáng tạo, thực hiện đổi mới nội dung, phương thức tập hợp, vận động nông dân nhằm thu hút, tập hợp nông dân cũng như nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở hội nông dân, ngày 23 tháng 6 năm 2016, Ban Thường vụ Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã ban hành Đề án 24 - ĐA/HNDTW về thí điểm xây dựng chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp.
Theo đó, chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp được hình thành trên cơ sở lựa chọn, vận động những hội viên nông dân cùng sản xuất một loại giống cây, con… hay cùng kinh doanh, cùng làm dịch vụ ở một nhóm ngành, nghề, lĩnh vực, có những điểm chung về sử dụng tư liệu sản xuất, công cụ lao động, về phương thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, về thu hoạch, chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông sản hàng hóa... vào tham gia sinh hoạt. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp là “5 tự” “5 cùng”. Trong đó, “5 tự” gồm: tự nguyện; tự giác; tự chủ; tự quản; tự chịu trách nhiệm. “5 cùng” gồm: cùng lĩnh vực lao động, ngành nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; cùng mối quan tâm; cùng có sự chia sẻ; cùng trách nhiệm; cùng hưởng lợi.
Với ưu thế mô hình tổ chức gọn, số lượng hội viên vừa phải, việc tổ chức sinh hoạt dễ dàng hơn (địa điểm sinh hoạt có thể tại nhà chi hội trưởng, tổ trưởng, hội viên, nhà văn hóa thôn, xóm, ấp, cụm dân cư, khu phố), nhiều chi hội, tổ hội sinh hoạt ngay tại vườn, trang trại của hội viên. Trên nguyên tắc “5 tự”, “5 cùng” và với nội dung sinh hoạt thiết thực, gắn với nhu cầu, đòi hỏi từ thực tế cuộc sống cũng như quá trình sản xuất, kinh doanh của hội viên nên tỉ lệ hội viên tham gia sinh hoạt, gắn bó với Hội cao hơn, hoạt động của tổ chức Hội hiệu quả hơn…
Có thể thấy, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo mô hình chi, tổ hội nông dân nghề nghiệp đã khắc phục được cơ bản những hạn chế, khó khăn tồn tại nhiều năm trong hoạt động của chi hội, tổ hội cơ sở. Mô hình chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp đã được nhân rộng ở khắp nhiều địa phương trên cả nước. Theo Báo cáo của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, tính đến 31.12.2019 cả nước đã có 14.818 tổ hội nông dân nghề nghiệp được thành lập với 174.697 hội viên tham gia. Trong đó có 9.584 tổ về trồng trọt; 3.503 tổ.
Từ những thành tựu đạt được và để phát triển mô hình tổ, chi hội nông dân nghề nghiệp trên địa bàn cả nước, thúc đẩy thực hiện đổi mới phương thức, nội dung, nâng cao hiệu quả công tác vận động nông dân trong tình hình mới, ngày 5 tháng 8 năm 2019, Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 04 - NQ/HNDTW, về đẩy mạnh xây dựng chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp trên phạm vi cả nước, vì mục tiêu phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại. Đến nay, qua các cuộc điều tra, khảo sát và báo cáo của các cấp hội, mô hình chi, tổ hội nông dân nghề nghiệp đã có sức lan tỏa và được xây dựng ở hầu khắp các các địa phương và về cơ bản các chi, tổ hội nông dân nghề nghiệp đã đi vào hoạt động nền nếp, thiết thực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của hội viên nông dân, tạo được mối liên kết chặt chẽ giữa hội viên với hội viên, hội viên với tổ chức Hội, xây dựng các chi hội nông dân ngày càng vững mạnh.
2. Những lợi ích từ xây dựng, phát triển mô hình chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp với công tác vận động nông dân
Thứ nhất, góp phần đổi mới phương thức, nội dung hoạt động của công tác vận động nông dân theo hướng thiết thực, hiệu quả; nâng cao chất lượng công tác dân vận của tổ chức hội nông dân đáp ứng yêu cầu của điều kiện, tình hình mới.
Với ưu thế mô hình tổ chức gọn, hội viên cùng ngành nghề, lĩnh vực, nhu cầu nên việc xây dựng nội dung sinh hoạt ở chi hội, tổ hội thuận lợi, thiết thực, chủ yếu tập trung vào trao đổi thông tin về thời tiết nông vụ, về thị trường, giá cả, về thiết bị, vật tư nông nghiệp, phương tiện sản xuất, các loại giống cây, con, về phòng trừ dịch bệnh, chia sẻ kinh nghiệm sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, về cách thức lập dự án sản xuất, kinh doanh, thủ tục vay vốn, quản lý và sử dụng hiệu quả vốn vay… Các nội dung sinh hoạt gắn với nhu cầu, đòi hỏi từ thực tế cuộc sống và quá trình lao động sản xuất, kinh doanh của nông dân nên tỉ lệ hội viên tham gia sinh hoạt và gắn bó với Hội ngày càng cao.
Đồng thời, với phương thức sinh hoạt theo chi hội, tổ hội cũng phát huy được tính tiên phong, năng động, sáng tạo và trách nhiệm của các hội viên, hội viên có điều kiện phát triển. Do đó, xuất hiện ngày càng nhiều các hội viên trẻ, năng nổ, nhiệt tình, trách nhiệm, có tư duy kinh tế, có kỹ năng lao động, có nhận thức chính trị tốt và uy tín với quần chúng, cộng đồng nông thôn. Đây là nguồn quan trọng để tổ chức hội nông dân có thể bồi dưỡng và phát triển, giới thiệu cho Đảng, chính quyền xem xét, rèn luyện, bố trí vào các vị trí cán bộ hội hoặc trưởng thôn, bí thư chi bộ… Đây cũng là cơ sở, điều kiện để hướng tới thực hiện mô hình tổ chức, quản lý sản xuất thống nhất trên cùng một địa bàn thôn, bản hoặc xã, phường, thị trấn.
Thứ hai, xây dựng và phát triển chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp tạo tiền đề phát triển các hình thức kinh tế tập thể (tổ hợp tác, hợp tác xã).
Với những kết quả tích cực trong hoạt động của các chi, tổ hội nông dân nghề nghiệp. Từ chỗ sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi đơn lẻ, manh mún, những người nông dân khi tham gia chi, tổ hội nghề nghiệp đã liên kết lại với nhau, góp phần mở rộng quy mô sản xuất, cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm, kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi. Đồng thời cũng tiếp cận được quá trình cung ứng vật tư, phân bón, giống với mức giá cạnh tranh so với đầu tư đơn lẻ, do đó đã hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế cho nông sản. Trong nền sản xuất hiện đại, để đảm bảo bền vững lâu dài lợi ích của những người nông dân thì mô hình sản xuất nông nghiệp theo chuỗi với vai trò nòng cốt là các hợp tác xã nông nghiệp chính là hướng đi đúng đắn.
Kết quả hoạt động của hợp tác xã những năm qua đã chứng minh được vai trò tổ chức kinh tế tập thể và sự cần thiết trong liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Do đó, trong gần 4 năm thực hiện Đề án 24 - ĐA/HNDTW và Nghị quyết 04- NQ/HNDTW, các cấp Hội Nông dân đã tích cực, chủ động tuyên truyền, vận động và trực tiếp hướng dẫn thành lập 404 hợp tác xã, 2.212 tổ hợp tác trên nền tảng phát triển từ các tổ hội nông dân nghề nghiệp, chi hội nông dân nghề nghiệp(5). Đã có nhiều hợp tác xã được xây dựng và phát triển từ các chi, tổ hội nông dân nghề nghiệp đang hoạt động hiệu quả như Hợp tác xã dệt thổ cẩm xã Chiềng Châu, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình; Hợp tác xã chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp xã Phạm Ngũ Lão, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, phát triển từ chi hội chăn nuôi của địa phương này; Hợp tác xã nông nghiệp cam xã Tam Đa, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên phát triển từ tổ hội trồng cam...
Thứ ba, xây dựng phát triển mô hình chi, tổ hội nông dân nghề nghiệp góp phần hướng nông dân vào việc tổ chức lại sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, bền vững.
Việc liên kết của hội viên nông dân trong các chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp đã hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, sản xuất hàng hóa tập trung để đảm bảo khối lượng hàng hóa lớn, chất lượng cao, đạt các tiêu chuẩn nội địa hoặc quốc tế. Các chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp không chỉ xây dựng được các mô hình nông dân liên kết, hợp tác trong sản xuất, kinh doanh mà còn đổi mới từ tư duy, nhận thức đến hành động thực tiễn trong sản xuất của người nông dân nhằm nâng cao chất lượng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp: chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún sang sản xuất hàng hóa quy mô lớn; chuyển từ hình thức sản xuất, canh tác thủ công, đơn giản sang ứng dụng công nghệ cao và các giải pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến, sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, theo hướng an toàn, phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu; chuyển từ coi trọng quy mô, khối lượng, sản lượng sang coi trọng chất lượng, hàm lượng dinh dưỡng và giá trị kinh tế của các mặt hàng nông sản…
Thứ tư, các hoạt động trong chi hội nông dân nghề nghiệp và tổ hội nông dân nghề nghiệp giúp tăng cường kết nối trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông sản, xây dựng chuỗi giá trị cho sản xuất nông sản Việt Nam.
Các chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp được thành lập và đi vào hoạt động đã tạo mối liên kết chặt chẽ giữa hội viên với hội viên trong cùng chi hội, tổ hội, từng bước xây dựng thành công “Liên kết các nhà” trong quá trình sản xuất (“Liên kết 4 nhà” gồm nhà nước - nhà nông - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp; “Liên kết 5 nhà” gồm nhà nước - nhà doanh nghiệp - nhà nông - nhà khoa học và ngân hàng; trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ thì “Liên kết 5 nhà” gồm nhà nước - nhà khoa học - nhà nông - nhà doanh nghiệp - nhà tiêu dùng; “Liên kết 6 nhà” gồm nhà nước – nhà nông - nhà doanh nghiệp - nhà khoa học - ngân hàng - nhà tư vấn).
Nhiều chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp đã chủ động phối hợp với các hợp tác xã, doanh nghiệp, nhà khoa học tổ chức tập huấn ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ, tổ chức lại sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hướng dẫn, hỗ trợ nông dân đăng ký truy xuất nguồn gốc, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu, thương hiệu nông sản, tham gia các hội chợ xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm, liên kết với các hệ thống siêu thị, các chợ đầu mối, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước. Nhiều chi hội thông qua hợp tác xã làm đầu mối ký kết với doanh nghiệp, hướng dẫn nông dân tổ chức sản xuất theo quy trình kỹ thuật, bảo vệ lợi ích cho nông dân.
Tóm lại, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay, hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn đã và đang chuyển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa với sự đa dạng, phong phú nhiều lĩnh vực, ngành hàng, nhiều loại giống cây trồng, vật nuôi…, xây dựng và hoạt động của các mô hình chi, tổ hội nông dân nghề nghiệp ở các địa phương đã cho thấy sự đúng đắn trong thực hiện đổi mới nội dung, phương thức vận động nông dân của tổ chức Hội Nông dân. Thực tế, đây đang là mô hình tập hợp, tuyên truyền, vận động nông dân có hiệu quả nhất, không chỉ đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích thiết thực của hội viên nông dân, mà còn góp phần phát triển nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn, xây dựng nông thôn mới, đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nông dân, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương./.
_______________________________________
(1) BCH TW Hội Nông dân Việt Nam, Báo cáo tổng quan Hội Nông dân xây dựng chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp; tham gia phát triển kinh tế tập thể và xây dựng nông thôn mới, Số 212 - BC/HNDTW.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị Quốc gia, tr.124.
(3) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia .- Sự thật, T.14, tr.467.
(4) BCH TW Hội Nông dân Việt Nam, Báo cáo tổng quan Hội Nông dân xây dựng chi hội nông dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp; tham gia phát triển kinh tế tập thể và xây dựng nông thôn mới, Số 212 - BC/HNDTW.
(5) BCH TW Hội Nông dân Việt Nam, Báo cáo tổng quan Hội Nông dân xây dựng chi hội nông dân dân nghề nghiệp, tổ hội nông dân nghề nghiệp; tham gia phát triển kinh tế tập thể và xây dựng nông thôn mới, Số 212 - BC/HNDTW.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông tháng 7.2021
Bài liên quan
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
- Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
- Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
- Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
- Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi gắn liền với cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Xem nhiều
-
1
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
-
2
Nâng cao chất lượng thực hành nghề nghiệp cho sinh viên ngành công tác xã hội tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
-
3
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
-
4
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
5
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
-
6
Truyền thông đại chúng trong kỷ nguyên số: động lực đổi mới mô hình phát triển xã hội Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Toàn văn bài phát biểu của đồng chí Thường trực Ban Bí thư tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025-2030
Trong 02 ngày (10-11/8/2025), Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã trọng thể tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025-2030 với chủ đề “Phát huy truyền thống vẻ vang, đẩy mạnh đổi mới toàn diện, đồng bộ, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đến năm 2030, xây dựng Học viện giàu bản sắc, hiện đại và hội nhập trong kỷ nguyên phát triển mới”.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứTư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, việc xây dựng lực lượng sản xuất mới trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam. Trong đó, nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò then chốt, quyết định khả năng tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo khoa học – công nghệ, thúc đẩy năng suất lao động, đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Bài viết tập trung làm rõ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay - nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở nước ta.
Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
Sự hình thành và phát triển của các hội là một phương thức cần thiết để các cá nhân và nhóm xã hội khác nhau có thể bày tỏ tiếng nói, ý kiến của mình trước cộng đồng xã hội, tạo sự hiểu biết, hiệp thương và đồng thuận nhằm giữ gìn sự ổn định xã hội. Ở Việt Nam, quyền lập hội của công dân đã được Hiến pháp quy định và trong thực tế Nhà nước đã tạo điều kiện cho hội hoạt động, phát triển qua việc ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh việc tổ chức và hoạt động của các hội. Bài viết đề cập đến khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của các hội trong bối cảnh phát triển ở Việt Nam hiện nay.
Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia có ý nghĩa to lớn, là yếu tố then chốt để thúc đẩy sự phát triển đất nước. Việc xây dựng và duy trì không gian mạng an toàn, ổn định và tự chủ sẽ là nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững, cho sự vươn mình của dân tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
Việt Nam có 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân tộc thiểu số với trên 14 triệu người, chiếm khoảng 14,7% dân số cả nước, sinh sống thành cộng đồng, cư trú xen kẽ, tập trung chủ yếu ở các khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, duyên hải miền Trung và Tây Nam Bộ. Trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở nước ta, người có uy tín có vai trò quan trọng trong triển khai đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, là nòng cốt trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, giữ vững chủ quyền, an ninh, trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và khu vực biên giới.
Bình luận