Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
1. Khái quát về chính quyền Thành phố Hồ Chí và chính sách nhà ở xã hội ở Thành phố hiện nay
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học – công nghệ lớn nhất cả nước, đồng thời giữ vị trí hạt nhân trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Bộ máy chính quyền Thành phố được tổ chức theo mô hình chính quyền đô thị đặc thù, gồm Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thành phố và các sở, ban, ngành trực thuộc, cùng với hệ thống chính quyền quận, thành phố thuộc Thành phố và cấp xã, phường, thị trấn. Trong những năm gần đây, chính quyền Thành phố đặc biệt chú trọng cải cách hành chính, xây dựng chính quyền số, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và hiệu quả phục vụ người dân, doanh nghiệp. Sau khi thực hiện chủ trương sáp nhập địa giới hành chính, mô hình chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức theo 2 cấp chính quyền (cấp thành phố và cấp cơ sở xã, phường), bỏ cấp trung gian quận, huyện. Đây là sự thay đổi quan trọng, đánh dấu bước chuyển từ mô hình quản lý 3 cấp (thành phố – quận/huyện – xã/phường) sang 2 cấp (thành phố – cơ sở).
Mô hình chính quyền 2 cấp giúp bộ máy gọn nhẹ hơn, tăng tính minh bạch và hiệu lực điều hành. Tuy nhiên, việc phân công lại chức năng giữa Thành phố và cơ sở cũng tạo ra thách thức về năng lực cán bộ, hạ tầng quản lý số, cũng như cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả chính sách. Đặc biệt trong lĩnh vực nhà ở xã hội, chính quyền cơ sở cần được đào tạo, bổ sung nguồn lực để có thể thực hiện tốt công tác quản lý, tránh tình trạng “khoảng trống” sau khi bỏ cấp quận/huyện.
Tính đến cuối năm 2024, dân số toàn thành phố đã đạt 9.521.886 triệu người(1), trong đó có hàng triệu lao động đang làm việc trong các khu chế xuất, khu công nghiệp, dịch vụ và các lĩnh vực phi chính thức. Điều này kéo theo áp lực rất lớn về nhu cầu nhà ở, đặc biệt là phân khúc nhà ở xã hội dành cho người thu nhập thấp.
Phát triển nhà ở xã hội tại TP. Hồ Chí Minh vẫn là một nhiệm vụ cấp bách. Giai đoạn 2021 – 2030 nguồn cung nhà ở xã hội tại TP. Hồ Chí Minh chỉ đáp ứng 17,8% nhu cầu, nhà ở công nhân chỉ đáp ứng gần 6% nhu cầu(2). Trong khi đó, tổng nhu cầu nhà ở của Thành phố trong giai đoạn này là khoảng 37 triệu m2 sàn nhà ở, tập trung chủ yếu là nhu cầu nhà ở của người thu nhập thấp ở đô thị khoảng 15 triệu m2 sàn nhà ở; công nhân làm việc trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn khoảng 12 triệu m2 sàn nhà ở(3).
Nhu cầu nhà ở xã hội không chỉ xuất phát từ khối lượng dân cư đông đảo có thu nhập thấp, mà còn phản ánh thực tế về giá nhà thương mại ngày càng vượt xa khả năng chi trả của đa số người dân. Với mức lương bình quân của người lao động hiện nay khả năng tiếp cận nhà ở thương mại là rất thấp, kể cả khi được hỗ trợ vay vốn Theo kết quả khảo sát về tình hình tiền lương của Sở Lao động-Thương binh và Xã hội TP. Hồ Chí Minh cuối năm 2024 cho thấy mức lương thực nhận bình quân của người lao động trên địa bàn TP trong năm 2024 đạt 12,4 triệu đồng/tháng. Nhiều lao động hiện vẫn đang sống trong các khu nhà trọ tạm bợ, điều kiện vệ sinh, an toàn và hạ tầng thiếu thốn, tiềm ẩn nguy cơ mất an ninh trật tự và sức khỏe cộng đồng. Những người thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo, người khuyết tật, người già neo đơn hoặc cán bộ, viên chức mới đi làm cũng rơi vào tình trạng khó tiếp cận nhà ở bền vững do thiếu chính sách hỗ trợ tài chính phù hợp. Đồng thời, quỹ đất dành cho nhà ở xã hội ngày càng khan hiếm, khiến cho việc phát triển dự án nhà ở xã hội gặp nhiều trở ngại về quy hoạch, pháp lý và chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng.
Như vậy, có thể thấy nhu cầu nhà ở xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay không chỉ lớn về số lượng mà còn đòi hỏi chất lượng, tính bền vững và sự phù hợp với khả năng chi trả của người dân. Đây là một trong những vấn đề cấp thiết hàng đầu của chính quyền thành phố trong chiến lược phát triển đô thị bền vững, cần có sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt và lâu dài của cả hệ thống chính trị, các nhà đầu tư và xã hội.
2. Thực trạng chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội
Theo chỉ đạo của Trung ương và tình hình thực tế của Thành phố, nhằm giải quyết nhu cầu nhà ở cho người thu nhập thấp và công nhân khu công nghiệp, ngày 03/4/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 338/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội giai đoạn 2021–2030”. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh được giao chỉ tiêu 69.700 căn, gồm: giai đoạn 2022–2025: 26.300 căn; giai đoạn 2026–2030: 43.500 căn(4).
Tiếp đó, ngày 27/02/2025, Thủ tướng ban hành Quyết định số 444/QĐ-TTg, điều chỉnh chỉ tiêu nhà ở xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh như sau: giai đoạn 2021–2024: hoàn thành 2.745 căn; giai đoạn 2025–2030: hoàn thành 66.955 căn, với chỉ tiêu từng năm: Năm 2025: 2.874 căn, năm 2026: 6.410 căn, năm 2027: 9.610 căn, năm 2028: 12.820 căn, năm 2029: 16.020 căn, năm 2030: 19.221 căn(5).
Bên cạnh đó, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 201/2025/QH15 với các cơ chế đặc thù hỗ trợ phát triển nhà ở xã hội như: thành lập Quỹ nhà ở quốc gia; giao chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội không qua đấu thầu; chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với giao đất. Ngoài ra, Luật Nhà ở 2023 (có hiệu lực từ 01/8/2024) bổ sung nhiều ưu đãi: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải bố trí đủ quỹ đất để phát triển nhà ở xã hội; chủ đầu tư được miễn thuế sử dụng đất, thuê đất; được hưởng lợi nhuận định mức tối đa 10%; thủ tục bán, cho thuê, thuê mua được đơn giản hóa.
Từ sự chỉ đạo của Trung ương, thành ủy thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu các ban ngành liên quan thúc đẩy xây dựng nhà ở xã hội cho các đối tượng thuộc diện chính sách. Trên những cơ sở này, chính quyền thành phố đã chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển nhà ở xã hội:
Một là, hoạch định chính sách cụ thể và phân kỳ theo mục tiêu
Thành phố đã xây dựng chiến lược phát triển nhà ở xã hội bài bản theo giai đoạn, cụ thể Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng chiến lược phát triển nhà ở xã hội theo lộ trình bài bản, thể hiện qua Đề án “Xây dựng Chương trình phát triển nhà ở TP.HCM giai đoạn 2021–2030” ban hành tại Quyết định số 4834/QĐ-UBND ngày 31/12/2020. Đối tượng thi hành là các cơ quan quản lý nhà nước, chủ đầu tư dự án và các nhóm người dân thuộc diện chính sách về nhà ở xã hội. Văn bản này có hiệu lực kể từ ngày ký, trở thành cơ sở pháp lý để thành phố triển khai kế hoạch phát triển nhà ở xã hội trong giai đoạn 2021–2030, đồng thời cụ thể hóa các chỉ tiêu, quỹ đất và cơ chế hỗ trợ thực thi.. Các chỉ tiêu xây dựng cụ thể theo từng năm đã được phân công cho các sở, ngành và quận, huyện chịu trách nhiệm, thể hiện tính kế hoạch hóa và phân cấp rõ ràng. Trong các chương trình phát triển nhà ở của Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2021–2030, thành phố đã xác định rõ chỉ tiêu phát triển nhà ở xã hội theo từng nhóm đối tượng như công nhân, người lao động thu nhập thấp … Mỗi nhóm được gắn với các tiêu chuẩn riêng về diện tích, giá bán, chính sách hỗ trợ và phương thức tiếp cận. Phân loại đối tượng được ưu tiên về nhà ở xã hội, quy định tiêu chuẩn, giá cả và thiết kế, có chính sách hỗ trợ tài chính cụ thể cho các đối tượng(6).
Chính quyền thành phố cũng đã chia quá trình thực hiện chính sách thành các giai đoạn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, gắn với từng mục tiêu cụ thể về số lượng căn hộ xây dựng, diện tích sàn, mức đầu tư, và đối tượng thụ hưởng theo từng năm hoặc chu kỳ 5 năm(7). Cách làm này giúp quá trình triển khai không bị dàn trải hoặc thiếu trọng tâm, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để điều chỉnh chính sách phù hợp với diễn biến của thị trường, quỹ đất và nguồn lực tài chính.
Hai là, chủ động quỹ đất và kêu gọi đầu tư đa dạng thành phần
Thành phố đã quy hoạch 1.400 ha đất dành riêng cho phát triển nhà ở xã hội – đây là quyết định chiến lược thể hiện tầm nhìn lãnh đạo dài hạn. Ngoài ra, hơn 100 dự án đã được đưa vào danh mục theo dõi, tạo tiền đề để kêu gọi đầu tư theo hình thức đối tác công tư và nhiều mô hình xã hội hóa khác(8).
Nhằm tăng cường nguồn lực cho phát triển nhà ở xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh đã chủ động kêu gọi đầu tư từ nhiều thành phần kinh tế, bao gồm cả doanh nghiệp trong và ngoài nước. Thành phố đã công bố danh mục 7 dự án mời gọi đầu tư, với khoảng 8.000 căn hộ. Tính gộp với 10.000 căn hộ do thành phố dự kiến đầu tư công, Thành phố Hồ Chí Minh có thể phát triển được khoảng 70.000 căn nhà ở xã hội đến năm 2030, đáp ứng chỉ tiêu theo Đề án 1 triệu căn nhà ở xã hội của Chính phủ(9).
Để thu hút nhà đầu tư, Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện các chính sách ưu đãi như hỗ trợ về thủ tục hành chính, tạo quỹ đất sạch và áp dụng cơ chế đặc thù về đất đai, quy hoạch, đầu tư nhà ở xã hội. Chính quyền còn cam kết hỗ trợ chủ đầu tư thông qua các chính sách miễn giảm thuế, rút ngắn thủ tục hành chính, đảm bảo minh bạch trong đấu thầu và xét duyệt dự án.
Ba là, tổ chức thực hiện quyết liệt và linh hoạt
Chính quyền thành phố đã thành lập tổ công tác liên ngành: Việc thành lập các tổ công tác liên ngành thể hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở ngành và các địa phương trên địa bàn thành phố nhằm giải quyết nhanh chóng các thủ tục pháp lý cho các dự án nhà ở xã hội. Đây là điểm nhấn về tính chủ động và linh hoạt trong chỉ đạo của chính quyền thành phố, cách làm này giúp tháo gỡ nhanh chóng những vướng mắc lâu nay trong thủ tục hành chính – rào cản khiến nhiều dự án bị đình trệ, đặc biệt, chính quyền thành phố ưu tiên giải quyết tại các khu vực có mật độ dân cư lao động, khu vực giáp ranh trung tâm và các vùng công nghiệp.
Với những quyết tâm và nỗ lực của chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh, việc thực hiện chính sách nhà ở xã hội trên địa bàn thành phố đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Theo báo cáo của Sở Xây dựng trước thời điểm sáp nhập, giai đoạn từ năm 2021 đến hết quý I/2025, Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng hoàn thành 6 dự án với quy mô 2.745 căn hộ. Cùng với đó, thành phố đang thi công bốn dự án với quy mô 2.874 căn hộ, dự kiến hoàn thành trong năm 2025. Hiện nay, thành phố đang tiếp tục triển khai thực hiện thủ tục pháp lý đối với 21 dự án với quy mô khoảng 40.000 căn hộ. Lãnh đạo thành phố cũng đã giao Sở Xây dựng làm đầu mối triển khai các dự án, xây dựng bản đồ quy hoạch phát triển nhà ở xã hội(10).
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã chủ động triển khai nhiều chính sách quan trọng nhằm phát triển nhà ở xã hội. Các kiến nghị từ Thành phố đã được Trung ương ghi nhận và lồng ghép vào Nghị quyết số 98/2023/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù cho Thành phố Hồ Chí Minh, qua đó tạo hành lang pháp lý thuận lợi để tháo gỡ vướng mắc về đất đai, quy hoạch và thu hút đầu tư vào lĩnh vực nhà ở xã hội. Thành phố đã xác định rõ mục tiêu đến năm 2030 phải hoàn thành tối thiểu 93.000 căn hộ nhà ở xã hội(11) gắn với lộ trình và chỉ tiêu cụ thể hàng năm.
Song song với việc xây dựng quỹ nhà ở, chính quyền Thành phố cũng đặc biệt chú trọng đến việc đảm bảo tính đồng bộ của hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội trong và ngoài phạm vi dự án, cụ thể trong các chương trình phát triển nhà ở xã hội như Quyết định 4151/QĐ-UBND (2021) của Ủy ban nhân dân Thành phố và Nghị quyết 98/2023/QH15 của Quốc hội, Thành phố Hồ Chí Minh luôn quy định rõ yêu cầu gắn xây dựng nhà ở với hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đồng bộ. Các dự án nhà ở xã hội hiện nay không chỉ dừng lại ở việc cung cấp chỗ ở, mà còn được tích hợp hệ thống giao thông kết nối, trường học, cơ sở y tế, thiết chế văn hóa và không gian công cộng, nhằm nâng cao chất lượng sống cho công nhân, người lao động và các nhóm thu nhập thấp. Chính sự quan tâm toàn diện này đã góp phần giải quyết từng bước bài toán an cư, đồng thời tạo điều kiện để ổn định lực lượng lao động, thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế – xã hội của Thành phố. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn thành phố vẫn còn những khó khăn, vướng mắc, đó là:
Thứ nhất, sự chậm trễ trong phê duyệt dự án và quy hoạch đất.
Một trong những nút thắt lớn nhất hiện nay là việc quy hoạch và bố trí quỹ đất dành cho phát triển nhà ở xã hội. Dù Luật Nhà ở và các văn bản hướng dẫn đã yêu cầu địa phương phải xác định quỹ đất 20% trong các dự án nhà ở thương mại để xây dựng nhà ở xã hội, nhưng trên thực tế, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn gặp khó trong việc thu hồi hoặc hoán đổi những phần đất này. Không ít doanh nghiệp đề xuất giao lại phần đất này cho Nhà nước nhưng quá trình thẩm định, định giá và tiếp nhận lại đất lại kéo dài. Bên cạnh đó, việc thiếu quy hoạch chi tiết hoặc chậm cập nhật các quy hoạch phân khu cũng khiến nhiều khu vực không thể triển khai dự án dù nhu cầu rất lớn. Việc chậm trễ trong quy hoạch và phê duyệt không chỉ ảnh hưởng đến doanh nghiệp, mà còn làm mất đi cơ hội cải thiện điều kiện sống của hàng trăm nghìn lao động đang thuê trọ tạm bợ. Hậu quả kéo theo là sự mất cân đối về cung cầu, giá nhà ở xã hội tăng ngoài tầm với của người thu nhập thấp, làm giảm ý nghĩa của chính sách an sinh mà Nhà nước đã đặt ra.
Thứ hai, các chính sách ưu đãi đầu tư chưa đủ hấp dẫn, chưa khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển nhà ở xã hội.
Mặt khác, dù Luật Nhà ở 2023 cho phép doanh nghiệp đầu tư nhà ở xã hội nhà ở xã hội trên đất riêng, nhưng tại Thành phố Hồ Chí Minh, việc tiếp cận quỹ đất sạch vẫn là một trở ngại lớn. Quỹ đất dành riêng cho nhà ở xã hội tại các khu vực thuận tiện giao thông, gần khu công nghiệp, lại rất hạn chế hoặc chưa được quy hoạch rõ ràng. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đánh giá rằng quy trình thủ tục hành chính vẫn phức tạp, thời gian thẩm định dự án kéo dài, dù được gọi là “ưu tiên” vẫn không khác nhiều so với các dự án nhà ở thương mại. Điều này làm tăng chi phí cơ hội và rủi ro đầu tư.
Xét về tài chính, các gói tín dụng ưu đãi triển khai rất chậm, thủ tục tiếp cận vốn qua Ngân hàng Chính sách xã hội hoặc ngân hàng thương mại được chỉ định còn nhiều điều kiện khắt khe. Trong khi đó, lãi suất thị trường và chi phí xây dựng tăng cao, biên lợi nhuận thấp khiến nhiều nhà đầu tư không thật sự tâm huyết. Theo Nghị quyết 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 của Chính phủ “về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững”, gói tín dụng 120.000 tỷ đồng dành cho nhà ở xã hội đã được triển khai nhưng gặp phải nhiều khó khăn trong việc giải ngân; sau đó Chính phủ tiếp tục mở rộng quy mô gói tín dụng lên 145.000 tỷ đồng, với mục tiêu thúc đẩy hiệu quả giải ngân và hỗ trợ tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp trong lĩnh vực nhà ở xã hội góp phần tháo gỡ đáng kể “nút thắt vốn”, tạo điều kiện hỗ trợ cả chủ đầu tư và người dân. Tuy nhiên, khó khăn vẫn tồn tại do thủ tục giải ngân phức tạp, quỹ đất hạn chế và khả năng trả nợ của người lao động còn thấp. Như vậy, tăng vốn là cần thiết nhưng chưa đủ, cần đi kèm cải cách thủ tục và đồng bộ hạ tầng.
Thứ ba, nguồn lực tài chính của thành phố còn hạn chế, trong khi nhu cầu hỗ trợ người dân là rất lớn.
Những người thuộc diện được hưởng chính sách về nhà ở xã hội như hộ gia đình nghèo, cận nghèo tại khu vực đô thị, công nhân, người lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp… là những đối tượng không đủ điều kiện về tài chính tiếp cận nhà ở thương mại nhưng cũng không dễ dàng tiếp cận các chính sách tín dụng ưu đãi, do rào cản về thủ tục, lãi suất, hoặc điều kiện vay. Trong khi đó, quỹ ngân sách thành phố lại chưa đủ mạnh để tài trợ hoặc hỗ trợ trực tiếp cho người dân một cách quy mô và thường xuyên.
Nguồn lực tài chính của Thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu vẫn phải tập trung vào các lĩnh vực cấp thiết khác như giao thông, y tế, giáo dục, cải tạo hạ tầng đô thị và ứng phó biến đổi khí hậu, điển hình Metro số 1 đội vốn từ 17.000 tỷ lên 43.700 tỷ(12), buộc Thành phố phải ưu tiên ngân sách đối ứng, giảm dư địa chi cho nhà ở xã hội. Trong khi đó, nguồn vốn cấp cho nhà ở xã hội phần lớn vẫn phụ thuộc vào ngân sách trung ương hoặc các gói tín dụng do Ngân hàng Chính sách xã hội và các ngân hàng thương mại triển khai. Tuy nhiên, tốc độ giải ngân của các gói vay này vẫn rất chậm, phần vì quy trình phức tạp, phần vì mức độ tiếp cận thực tế còn hạn chế, đặc biệt tại các khu vực có mật độ gia tăng dân số cơ học cao.
Bên cạnh đó, quỹ đất dành riêng cho nhà ở xã hội ngày càng khan hiếm, việc giải phóng mặt bằng hoặc mua lại quỹ đất từ doanh nghiệp để chuyển đổi mục đích sử dụng cũng cần nguồn lực tài chính rất lớn – điều mà thành phố hiện chưa thể đáp ứng một cách chủ động. Việc kêu gọi xã hội hóa thông qua doanh nghiệp tư nhân cũng gặp khó do các chính sách ưu đãi chưa thực sự hấp dẫn, và chưa có cơ chế tài chính linh hoạt để hỗ trợ doanh nghiệp yên tâm đầu tư.
3. Giải pháp tiếp tục thực hiện chính sách nhà ở xã hội của chính quyền TP.HCM
Một là, tiếp tục quán triệt chủ trương của Thành ủy, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện chính sách nhà ở xã hội
Việc quán triệt đầy đủ và nghiêm túc chủ trương của Thành ủy là nền tảng để triển khai hiệu quả các chính sách cụ thể, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong thực hiện nhiệm vụ này.
Trên cơ sở định hướng từ Trung ương và chủ trương của Thành ủy, các cấp ủy Đảng, chính quyền thành phố cần tiếp tục triển khai các hoạt động tuyên truyền, giáo dục chính trị sâu rộng trong toàn hệ thống. Đặc biệt, cần xác định rõ nhà ở xã hội là nhiệm vụ trọng điểm, lâu dài, gắn với chiến lược phát triển đô thị bền vững. Mỗi cán bộ, đảng viên – nhất là đội ngũ lãnh đạo quản lý, công chức, viên chức tại các sở, ngành – cần nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình trong quá trình thực hiện, từ hoạch định chính sách, hướng dẫn thủ tục, kiểm tra, giám sát đến hỗ trợ người dân tiếp cận chính sách một cách hiệu quả và minh bạch.
Bên cạnh đó, việc nâng cao nhận thức cũng cần mở rộng ra toàn xã hội, đặc biệt là trong cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Doanh nghiệp cần hiểu rõ lợi ích lâu dài khi tham gia đầu tư vào lĩnh vực nhà ở xã hội, từ đó chủ động hơn trong hợp tác với Nhà nước thông qua các cơ chế xã hội hóa và hợp tác công – tư. Người dân, nhất là người lao động thu nhập thấp, cần được tiếp cận thông tin đầy đủ, chính xác về quyền lợi và nghĩa vụ của mình để chủ động tham gia vào quá trình đăng ký, thụ hưởng chính sách.
Ngoài ra, các tổ chức chính trị – xã hội, Mặt trận Tổ quốc, công đoàn tại các khu công nghiệp cũng cần phát huy vai trò đồng hành, giám sát và phản biện xã hội, góp phần thúc đẩy việc triển khai các dự án nhà ở xã hội đúng mục tiêu, đúng đối tượng, bảo đảm tính công khai, minh bạch và hiệu quả.
Việc tiếp tục quán triệt sâu sắc chủ trương của Thành ủy không chỉ tạo sự đồng thuận trong hành động giữa các cấp, các ngành mà còn lan tỏa ý thức trách nhiệm xã hội đến toàn bộ hệ thống chính trị và người dân. Đây chính là tiền đề quan trọng để thực hiện thành công mục tiêu phát triển nhà ở xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn tới.
Hai là, tiếp tục nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh, bổ sung chính sách nhà ở xã hội:
Trước hết, Thành phố cần tổ chức tổng rà soát lại các văn bản, chính sách, quy định liên quan đến nhà ở xã hội đang được áp dụng. Việc này nhằm xác định những bất cập, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Ví dụ, các tiêu chí xác định đối tượng thụ hưởng, điều kiện xét duyệt hồ sơ mua/thuê nhà ở xã hội còn rườm rà, gây khó khăn cho người dân tiếp cận. Đồng thời, cần rà soát tính hiệu quả của các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tham gia phát triển nhà ở xã hội, từ đó đề xuất các giải pháp điều chỉnh sát thực tế. Tiếp theo, việc nghiên cứu, cập nhật thông tin, dữ liệu về nhu cầu và khả năng chi trả của các nhóm đối tượng (công nhân, người lao động, cán bộ công chức, người thu nhập thấp...) là cơ sở để xây dựng chính sách phù hợp. Thành phố cần ứng dụng công nghệ số trong quản lý dữ liệu nhà ở và dân cư, nhằm minh bạch hóa quá trình xét duyệt và phân bổ nhà ở xã hội, tránh tình trạng trục lợi chính sách. Bên cạnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh nên mạnh dạn đề xuất các cơ chế đặc thù, thử nghiệm mô hình nhà ở xã hội mới như nhà cho thuê giá rẻ, nhà ở có diện tích nhỏ, nhà ở xã hội kết hợp thương mại, gắn với hạ tầng đồng bộ và dịch vụ xã hội cơ bản. Những mô hình này không chỉ phù hợp với điều kiện đô thị chật hẹp mà còn đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân. Cuối cùng, cần điều chỉnh các chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư như hỗ trợ tiếp cận đất đai, giảm thuế, rút ngắn thủ tục hành chính trong cấp phép dự án nhà ở xã hội. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong việc mua bán, cho thuê nhà ở xã hội không đúng đối tượng.
Ba là, tăng cường khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn vốn phát triển nhà ở xã hội (ngân sách và vốn từ doanh nghiệp).
Trước hết, Thành phố cần tiếp tục ưu tiên bố trí nguồn vốn ngân sách cho công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng và đầu tư hạ tầng kỹ thuật đối với các dự án nhà ở xã hội, nhất là tại các khu vực có đông công nhân, người lao động sinh sống. Vốn ngân sách nên được sử dụng hiệu quả, có trọng tâm, tránh dàn trải, ưu tiên hỗ trợ các dự án có tiến độ nhanh, phù hợp với quy hoạch phát triển đô thị. Đồng thời, Thành phố cần có các cơ chế, chính sách thu hút mạnh mẽ nguồn vốn từ khu vực tư nhân và các doanh nghiệp tham gia đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Cụ thể, cần cải thiện môi trường đầu tư bằng cách đơn giản hóa thủ tục hành chính, minh bạch quy trình xét duyệt, rút ngắn thời gian cấp phép. Đồng thời, áp dụng các chính sách ưu đãi hợp lý như miễn, giảm tiền sử dụng đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ lãi suất vay hoặc cho phép tăng hệ số sử dụng đất đối với các dự án có tỷ lệ nhà ở xã hội cao. Ngoài ra, Thành phố nên chủ động thiết lập các quỹ tài chính riêng cho phát triển nhà ở xã hội, chẳng hạn Quỹ phát triển nhà ở xã hội từ nguồn vốn ngân sách kết hợp với vốn huy động từ doanh nghiệp, tổ chức tín dụng. Việc tạo ra cơ chế vận hành quỹ minh bạch, hiệu quả sẽ giúp cung cấp nguồn tài chính ổn định, lâu dài cho việc đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Đặc biệt, cần có các giải pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn nhằm tránh thất thoát, sai phạm. Đồng thời, khuyến khích các mô hình hợp tác công – tư (PPP) trong lĩnh vực nhà ở xã hội, qua đó chia sẻ rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tăng chất lượng công trình.
Bốn là, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính hỗ trợ người dân thụ hưởng chính sách nhà ở xã hội.
Trước hết, Thành phố cần đơn giản hóa hồ sơ, giấy tờ trong quá trình xét duyệt đối tượng thụ hưởng nhà ở xã hội. Hiện nay, người dân phải chuẩn bị nhiều loại giấy tờ xác nhận thu nhập, tình trạng nhà ở, hộ khẩu… gây mất thời gian và chi phí. Do đó, cần tích hợp, liên thông dữ liệu giữa các cơ quan như thuế, bảo hiểm xã hội, công an, địa chính... để giảm bớt các loại giấy tờ phải nộp, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm.
Ngoài ra, chính quyền cần chuẩn hóa quy trình thủ tục hành chính về nhà ở xã hội theo hướng công khai, minh bạch và dễ tiếp cận. Các biểu mẫu, hướng dẫn cần được niêm yết rõ ràng tại các điểm tiếp nhận hồ sơ và trên các nền tảng trực tuyến. Cán bộ tiếp nhận hồ sơ cần được tập huấn đầy đủ để hướng dẫn, hỗ trợ người dân tận tình, tránh tình trạng gây khó dễ hoặc yêu cầu thêm giấy tờ không cần thiết.
Chính sách nhà ở xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ chiến lược nhằm đảm bảo an sinh xã hội, ổn định thị trường bất động sản và hướng tới phát triển đô thị bền vững. Để đạt mục tiêu này, cần sự lãnh đạo mạnh mẽ, quyết liệt từ chính quyền thành phố, đi kèm cải cách thể chế, minh bạch hóa quy trình và huy động toàn diện nguồn lực từ khu vực công và tư nhân./.
______________________________
(1) Niên giám thông kê Việt Nam 2024.
(2), (3) Đến năm 2030 TP. Hồ Chí Minh vẫn khan hiếm nghiêm trọng nhà ở xã hội. https://tuoitre.vn/den-nam-2030-tp-hcm-van-khan-hiem-nghiem-trong-nha-o-xa-hoi-20230920084455094.htm.
(4) Quyết định số 338/QĐ-TTg ngày 03/4/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021 – 2030”
(5) Quyết định số 444/QĐ -TTg của Thủ tướng Chính phủ: Giao chỉ tiêu hoàn thành nhà ở xã hội trong năm 2025 và các năm tiếp theo đến năm 2030 để các địa phương bổ sung vào chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội
(7) https://vpub.hochiminhcity.gov.vn/portal/pages/2021-12-13/Phe-duyet-Ke-hoach-phat-trien-nha-o-TPHCM
(8) https://media.chinhphu.vn/tp-hcm-da-can-doi-hon-1400-hecta-dat-cho-nha-o-xa-hoi
(9) https://dantri.com.vn/bat-dong-san/hien-ke-giup-tphcm-co-the-dat-gan-70000-can-nha-o-xa-hoi
(10) https://thiennhienmoitruong.vn/tp-hcm-thuc-day-trien-khai-cac-du-an-nha-o-xa-hoi
(11) Chương trình phát triển nhà ở Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2021-2030
(12) https://vnexpress.net/metro-ben-thanh-suoi-tien-van-hanh
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
- Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
- Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
- Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
- Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
5
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
6
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Một số vấn đề cần chú ý trong xuất bản tạp chí khoa học điện tử ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0) đang tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, các tạp chí khoa học cũng cần chuyển đổi số và tăng cường xuất bản trực tuyến nhằm đáp ứng nhu cầu của độc giả. Ở Việt Nam hiện nay, nhiều tạp chí khoa học đã có những bước cải tiến, nâng cao chất lượng cả về nội dung lẫn hình thức, đồng thời xuất bản song song tạp chí điện tử để mở rộng khả năng truyền tải tri thức khoa học. Tuy nhiên, tạp chí khoa học điện tử có những đặc thù khác biệt so với tạp chí khoa học in, đặt ra những yêu cầu mới trong tổ chức, quản lý và xuất bản. Bài viết đề cập đến một số đặc điểm của tạp chí khoa học điện tử, phân tích một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình xuất bản nhằm nâng cao chất lượng, vừa phù hợp với xu thế chuyển đổi số, vừa bảo đảm các chuẩn mực khoa học và học thuật.
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
Trong quá trình đô thị hóa nhanh và áp lực dân số gia tăng, Thành phố Hồ Chí Minh đang đối mặt với một bài toán phức tạp: làm sao để đảm bảo chỗ ở phù hợp cho người dân, đặc biệt là các nhóm thu nhập thấp. Trong bối cảnh đó, tổ chức thực hiện chính sách nhà ở xã hội không chỉ là một nhiệm vụ hành chính đơn thuần, mà đã trở thành một sứ mệnh chiến lược, có ảnh hưởng sâu sắc đến mục tiêu phát triển đô thị bền vững, ổn định thị trường bất động sản và nâng cao chất lượng sống toàn diện. Trong khuôn khổ bài viết tập trung làm rõ những phương thức thực hiện cụ thể của chính quyền thành phố trong việc thực hiện mục tiêu này và đưa ra một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian tới.
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Phát triển kinh tế là một trong những nội dung then chốt, đột phá chiến lược luôn được Tỉnh ủy Phú Thọ chú trọng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Trên cơ sở đó, bức tranh kinh tế của tỉnh đã có nhiều khởi sắc đáng kể, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định, đòi hỏi cần có hệ thống giải pháp phù hợp và hiệu quả để kịp thời tháo gỡ, thúc đẩy phát triển bền vững.
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội trên cơ sở kết quả nghiên cứu chọn mẫu với cỡ mẫu là 468 sinh viên thuộc 3 trường Đại học tại Hà Nội (Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Giao thông vận tải, Học viện Báo chí Tuyên truyền). Kết quả nghiên cứu cho thấy, sinh viên nữ vẫn thường xuyên đối mặt với định kiến giới trong các môi trường khác nhau, trong đó, định kiến giới trên môi trường mạng xã hội (MXH) là phổ biến nhất, tiếp đến là môi trường sống, môi trường học đường, truyền thông đại chúng. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc cần phải tiếp tục có giải pháp phù hợp dần xoá bỏ định kiến giới trong các môi trường xã hội, đặc biệt môi trường MXH.
Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Trên thực tế, việc thường xuyên duy tu, sửa chữa tài sản, đầu tư cơ sở vật chất mới tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) trong thời gian qua đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra, là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng và phát triển Học viện cũng như thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao. Các quy định về đầu tư, quản lý tài sản đã được quan tâm nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi để phù hợp với quy định chung của Nhà nước và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; các biện pháp cụ thể để tăng cường đầu tư, tu chỉnh tài sản cũng liên tục được bổ sung, hoàn thiện, hướng tới việc sử dụng tài sản đúng công năng, tiết kiệm, hiệu quả và minh bạch. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đầu tư cơ sở vật chất trong thời gian qua của Học viện cũng đã bộc lộ một số bất cập. Bài viết trình bày thực trạng kết quả đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện thời gian qua, nêu những vấn đề còn tồn tại và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác đầu tư cơ sở vật chất, phục vụ chiến lược phát triển Học viện trong giai đoạn mới.
Bình luận