Chủ trương của Đảng về đổi mới công tác thông tin đối ngoại trong 10 năm đầu đổi mới
1. Thực hiện nhiệm vụ đối ngoại của Đảng, công tác tuyên truyền, thông tin đối ngoại có sự thống nhất về định hướng nội dung, có trọng tâm, trọng điểm phù hợp với từng giai đoạn
Đầu những năm 80 thế kỷ XX, tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp. Tác động của các nước lớn chi phối quan hệ chính trị quốc tế làm các quốc gia dân tộc, nhất là những nước đang phát triển như Việt Nam phải điều chỉnh chính sách, phương châm, phương thức đối ngoại. Cùng với sự vận động của tình hình khu vực và thế giới, từ những yêu cầu bức thiết về giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trong nước, Đảng ta đã đổi mới tư duy lãnh đạo, đưa đất nước phát triển, từng bước mở cửa, hội nhập thế giới.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986), với tinh thần “đổi mới tư duy”, Đảng ta chú trọng mở rộng quan hệ đối ngoại, coi trọng phát triển quan hệ với tất cả các nước, vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế. Từ đó, Đảng tuyên bố “muốn là bạn với tất cả các nước” tại Đại hội VII. Quan điểm nhất quán của Đảng là mở rộng quan hệ đối ngoại luôn đi đôi với kiên trì giữ vững nguyên tắc chỉ đạo vì hòa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đối ngoại với các nước trên nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Thực hiện nhiệm vụ đối ngoại của Đảng, báo chí, truyền thông có trách nhiệm tuyên truyền đường lối đối ngoại và quan điểm chỉ đạo của Đảng, góp phần vào tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại. Tuyên truyền chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, vì sự nghiệp dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. Đấu tranh giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần gìn giữ hòa bình ở Đông - Nam Á, ở châu Á Thái Bình Dương và trên thế giới, … tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”(1).
Phục vụ đường lối đối ngoại của Đảng, công tác thông tin, tuyên truyền có sự thống nhất trong định hướng nội dung trọng tâm, trọng điểm phù hợp với từng giai đoạn. Đó là, trong quan hệ đối ngoại khu vực truyền thống: tuyên truyền về chủ trương “phát triển và củng cố quan hệ đặc biệt giữa ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia; đoàn kết và tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(2).
Đối với các nước XHCN, nội dung trọng tâm của công tác truyền thông đối ngoại là tuyên truyền về chủ trương nhất quán, xuyên suốt của nước ta: “Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta; phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác; góp phần tăng cường sức mạnh và phát huy ảnh hưởng của cộng đồng xã hội chủ nghĩa”(3).
Bên cạnh đó, báo chí của Đảng cũng thông tin về những chủ trương, quan điểm mới của Đảng Cộng sản Việt Nam: Mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế. Ủng hộ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng và độc lập dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Đối với Trung Quốc, báo chí góp phần vào truyền thông ra thế giới, với nhân dân Trung Hoa về quan điểm của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam là: “Trên tinh thần bình đẳng, bảo đảm độc lập, chủ quyền và tôn trọng lẫn nhau, sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, bình thường hóa quan hệ và khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông - Nam Á và trên thế giới”(4).
Hoạt động tuyên truyền đối ngoại trên lĩnh vực báo chí truyền thông tập trung tuyên truyền quyết tâm cao của Đảng và nhân dân Việt Nam trong mục tiêu xây dựng nền hòa bình quốc gia và toàn cầu: “Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”(5).
Đại hội VI của Đảng đánh giá cao quá trình dân chủ hóa sinh hoạt chính trị của Đảng và nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội. “Các đồng chí trong toàn Đảng, đồng bào trong cả nước và ở nước ngoài đã đóng góp những ý kiến xây dựng và phong phú vào bản dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương và nêu nhiều kiến nghị xác đáng để Đảng ta đi đến những quyết định đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn cách mạng hiện nay”(6).
Qua đó cho thấy, công tác thông tin tuyên truyền, trong đó có truyền thông đối ngoại có đóng góp quan trọng trong thời gian chuẩn bị Đại hội VI của Đảng. Đó là tuyên truyền giữ vững chính trị tư tưởng trong cán bộ, đảng viên, nhân dân, định hướng đúng đắn đời sống tư tưởng xã hội, đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân về tình hình quốc tế và đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng, Nhà nước Việt Nam, từng bước quan tâm hơn người việt Nam ở nước ngoài.
Những năm đầu đổi mới, quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác đối ngoại đã bám sát những thay đổi lớn của tình hình. Theo đó, công tác tuyên truyền đối ngoại trên báo chí, truyền thông cũng có những đặc điểm mới và nhiệm vụ mới với nội dung và phương thức đa dạng, mang tính khoa học, tính giáo dục cao hơn. Báo chí, truyền thông đối ngoại đã thực hiện chức năng “diễn đàn của nhân dân” theo đúng tinh thần của pháp luật, đa chiều hơn trong phản ánh công tác đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Tuy nhiên, những năm đầu đổi mới, tình hình đất nước có nhiều khó khăn, khủng hoảng kinh tế - xã hội vẫn diễn ra gay gắt. Những sai lầm khuyết điểm trong quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội chưa được khắc phục kịp thời, tác động tiêu cực đến tình hình mọi mặt của đất nước, làm giảm sút uy tín của Đảng. Kỷ cương phép nước bị vi phạm; đạo đức xã hội suy giảm, người dân rời bỏ đất nước ra nước ngoài gia tăng, cùng những khó khăn chồng chất về kinh tế, đời sống… Đó cũng là những lý do để các thế lực đế quốc, phản động ra sức chống phá cách mạng Việt Nam, đánh vào nền tảng tư tưởng, đường lối đổi mới và vai trò lãnh đạo của Đảng bằng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” và nhiều hoạt động chống phá tinh vi, nham hiểm.
Trên thế giới, nhiều nước XHCN tìm đường cải tổ, cải cách… nhưng vẫn tiếp tục lún sâu vào khủng hoảng nghiêm trọng mang tính toàn hệ thống. Tiếp đó, mô hình CNXH hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Các thế lực phản động, thù địch quốc tế ra sức thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” bằng nhiều thủ đoạn từ kinh tế, văn hóa đến chính trị… Trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng, chúng tung các chiêu bài phản tuyên truyền, xuyên tạc đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; bôi đen, hạ bệ lãnh tụ, hòng xóa vai trò và sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam.
Trong giai đoạn này, Mỹ và các nước phương Tây vẫn duy trì cấm vận Việt Nam. Việc mở rộng quan hệ của Đảng, Nhà nước Việt Nam với các đảng cầm quyền, các chính thể, các tổ chức quốc tế trên thế giới bị hạn chế. Quan hệ Việt - Trung từ sau chiến tranh biên giới phía Bắc chưa được cải thiện; vấn đề liên quan đến quân tình nguyện Việt Nam giúp nhân dân Campuchia. Các thế lực phản động tìm mọi cách chống phá, xuyên tạc đường lối đổi mới của Đảng; xuyên tạc, phá hoại tình đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa hai nước Việt Nam - Campuchia. Con đường Việt Nam hội nhập với thế giới gặp nhiều khó khăn từ nhiều phía.
Cụ thể hóa đường lối đổi mới, ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13/NQ-TW “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”. Trong đó, mục tiêu đối ngoại được Nghị quyết khẳng định là nhằm lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta, củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng về ngoại giao là phục vụ ổn định chính trị, phát triển kinh tế, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ hàng đầu. Nghị quyết 13 đánh dấu sự đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng là “một cuộc đổi mới mạnh mẽ tư duy trong việc đánh giá tình hình thế giới, trong việc đề ra mục tiêu và chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của ta”(7).
Sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 8 khóa VI (tháng 3/1990) ban hành Nghị quyết số 8A “Về tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta”. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm “thêm bạn, bớt thù” được coi là một trong những nhiệm vụ cấp bách. Đồng thời, Nghị quyết xác định: cách đóng góp tốt nhất và thiết thực nhất lúc này vào cách mạng thế giới là thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, làm cho Việt Nam ngày càng ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, xã hội, mạnh về quốc phòng và an ninh.
Triển khai thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, từ năm 1986 - 1990, Việt Nam đã đẩy mạnh hoạt động đối ngoại trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị. Kết quả hoạt động đối ngoại đạt được trong những năm cuối thập niên 80 thế kỷ XX có ý nghĩa quan trọng trong mở cửa giao lưu, hợp tác với bên ngoài, tạo vị thế mới cho đất nước trong quan hệ quốc tế. Theo đó, tuyên truyền đối ngoại trên lĩnh vực báo chí, truyền thông, tích cực đẩy mạnh tuyên truyền về những chủ trương, quan điểm mới của Đảng về đối ngoại đóng vai trò quan trọng.
Bước vào thập niên 90 thế kỷ XX, Đảng Cộng sản ở các nước Đông Âu mất vai trò lãnh đạo chính quyền, chế độ chính trị, xã hội thay đổi. Tình hình Liên Xô hết sức khó khăn, phức tạp. Trong hoàn cảnh đó, tại Đại hội VII (tháng 6/1991), Đảng xác định trọng tâm của công tác đối ngoại là tiếp tục tạo môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các hoạt động thông tin đối ngoại trên các phương tiện báo chí, truyền thông của Đảng, Nhà nước có nhiệm vụ tuyên truyền về đường lối đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Trong đó, nhất quán quan điểm: Trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, lợi ích quốc gia dân tộc cơ bản, chân chính và cao nhất là giữ vững hòa bình để phát triển, nghĩa là phải tạo lập được môi trường quốc tế hòa bình, thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia.
Một trong những định hướng chính về nội dung của báo chí trong trong giai đoạn 1991-1996 là tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân cả nước, người Việt Nam ở nước ngoài về “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được thông qua tại Đại hội VII của Đảng. Tuyên truyền về mục tiêu đối ngoại là “tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(8).
Phản ánh tinh thần Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (tháng 6/1992) về đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng là: “giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng ta có quan hệ”(9).
Các hoạt động tuyên truyền đối ngoại nhằm đóng góp vào triển khai thực hiện chính sách đối ngoại đúng đắn, linh hoạt; phối hợp chặt chẽ công tác đối ngoại với công tác an ninh, quốc phòng; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người Việt Nam định cư ở nước ngoài gắn bó với quê hương, đất nước, tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng người Việt ở nước ngoài tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường công tác tư tưởng và tổ chức quản lý lưu học sinh, lao động nước ta ở nước ngoài phát huy nhân tố tích cực, hạn chế tiêu cực, không để các phần tử phản động tác động, lôi kéo(10).
2. Đổi mới công tác thông tin đối ngoại phù hợp thực tiễn Việt Nam và thế giới là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, Đảng ta ban hành nhiều văn bản chỉ đạo tuyên truyền đối ngoại, trong đó, Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13/6/1992 của Ban Bí thư Về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại, định hướng những nội dung chủ yếu trong công tác thông tin đối ngoại trên các phương tiện báo chí, truyền thông gồm: Thông tin về đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước cùng những thành tựu đạt được trong những năm đầu đổi mới toàn diện của đất nước; Những chủ trương quan trọng nhằm giải quyết một số vấn đề lớn hoặc đáng chú ý về kinh tế, chính trị, xã hội; Chính sách đối ngoại (cả chính sách kinh tế đối ngoại) nhất quán, lâu dài của Đảng và Nhà nước; những tiềm năng to lớn của Việt Nam trong quan hệ hợp tác với các nước; về hình ảnh đất nước, con người, lịch sử và nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam(11).
Chỉ thị nhấn mạnh, mục tiêu của công tác thông tin đối ngoại phải “làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ chính sách đối ngoại của ta để tranh thủ dư luận thế giới và tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Công tác thông tin đối ngoại phải được đổi mới và tăng cường nhằm đáp ứng những yêu cầu đó của cách mạng trong tình hình mới”(12). Công tác thông tin đối ngoại có nhiệm vụ phản bác những thông tin xuyên tạc, sai lệch về tình hình Việt Nam, nhất là về tình hình dân chủ, nhân quyền; ngăn chặn các hoạt động truyền bá những quan điểm, tư tưởng, lối sống, văn hóa phản động, kích động bạo lực, lật đổ ... từ bên ngoài vào Việt Nam. Đồng thời, thông tin ra bên ngoài những quan điểm đúng đắn, chính sách đối ngoại, kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam; phản ánh những khả năng to lớn của Việt Nam trong quan hệ với các nước.
Chỉ thị 11 của Ban Bí thư xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ của đội ngũ làm công tác thông tin là cần truyền thông ra quốc tế các thông tin về đất nước, dân tộc, bảo đảm tính đúng đắn, thống nhất trên nguyên tắc vì chủ quyền quốc gia và lợi ích tối thượng của dân tộc. Các hình thức tuyên truyền phải đa dạng, chân thực, sinh động, kịp thời, có tác động tích cực, có sức thuyết phục; thông tin đối ngoại phải góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong bối cảnh quốc tế phức tạp.
Các đơn vị, cơ quan thông tấn, báo chí… chủ lực như Đài Tiếng nói Việt Nam, cần tăng công suất phát sóng, nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh bằng tiếng nước ngoài và chương trình phát thanh bằng tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài. Đài Truyền hình Việt Nam cần nâng cao chất lượng chương trình truyền hình, mở rộng việc trao đổi chương trình và hợp tác với đài truyền hình các nước. Thông tấn xã Việt Nam nâng cao chất lượng báo ảnh Việt Nam, các bản tin đối ngoại; tranh thủ mọi khả năng hợp tác và tài trợ của nước ngoài bằng nhiều hình thức.
Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao tổ chức việc in, xuất bản và phát hành sách và báo chí đối ngoại. Kiện toàn Nhà xuất bản ngoại văn Thế giới (thuộc Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao), báo Đầu tư Việt Nam (thuộc Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư); tập trung cán bộ và phương tiện làm việc cho tờ báo đối ngoại Tin Việt Nam (VietNam Courier) trở thành tờ báo có tính chất quốc gia, có chất lượng cao về nội dung và hình thức; ngành du lịch, hàng không cũng có nhiệm vụ tham gia công tác đối ngoại…
Chỉ thị thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong ghi nhận tầm quan trọng và sự cần thiết phải đổi mới công tác thông tin đối ngoại cho phù hợp tình hình và đáp ứng được nhiệm vụ phục vụ công tác đối ngoại của Đảng, đồng thời định hướng sát với hoạt động của báo chí, truyền thông trong lĩnh vực đối ngoại.
Với những nội dung trên, Chỉ thị 11 của Ban Bí thư khóa VII đã đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển của công tác thông tin đối ngoại. Việc tuyên truyền trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được quan tâm nhiều hơn. Công tác thông tin truyên truyền đối với người Việt Nam ở nước ngoài trở thành một bộ phận quan trọng, một nhiệm vụ của công tác đối ngoại.
Ngày 29/11/1993, Bộ Chính trị khóa VII ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về chính sách và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Nghị quyết nhấn mạnh vai trò của công tác thông tin đối ngoại: “giúp kiều bào hiểu tình hình đất nước và phát huy khả năng góp phần xây dựng quê hương, đất nước trên nhiều lĩnh vực, bằng nhiều hình thức phù hợp với khả năng thực tế của mỗi người, kết hợp lợi ích của mình và đất nước”(13). Cung cấp thông tin về tình hình đất nước, phát hành văn hóa phẩm trong nước tới những nước có đông người Việt Nam sinh sống… Thông tin, truyền thông về quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn xác định người Việt Nam ở nước ngoài là “một bộ phận không thể tách rời của đồng các dân tộc Việt Nam ”, khuyến khích, động viên, kêu gọi đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp cho sự nghiệp đổi mới đất nước.
Đến năm 1995, bằng những nỗ lực và thành công bước đầu của cả nước trên con đường đổi mới, cùng với đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước đạt nhiều thành tựu quan trọng, đem đến sự thay đổi lớn trong quan hệ quốc tế, khẳng định vị thế Việt Nam trên thế giới. Việt Nam đã phá được thế bao vây, cô lập, mở rộng quan hệ quốc tế trên phạm vi lớn. Việt Nam đã có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, bao gồm 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam gia nhập ASEAN và tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Như vậy, trong 10 năm đổi mới, qua các Đại hội VI, VII và đến Đại hội VIII (tháng 6/1996), đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng ta đã được xác lập vững chắc và phát triển. Đại hội VIII (tháng 6/1996) diễn ra trong tình hình công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu quan trọng, toàn diện. Về đối ngoại, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ, mở ra thời kỳ thiết lập và mở rộng quan hệ ngoại giao với nhiều nước và các tổ chức quốc tế: “mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại”.
Đại hội đề ra nhiệm vụ sớm hoạch định một chiến lược quốc gia về thông tin, coi trọng việc nâng cao chất lượng thông tin đại chúng, tăng cường công tác thông tin đối ngoại. Trên cơ sở đó, báo chí, truyền thông có trách nhiệm tích cực, đẩy mạnh hơn nữa tuyên truyền, quảng bá về đất nước Việt Nam đang trên đường đổi mới thành công; phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ đối ngoài là “củng cố hòa bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”(14).
Đường lối đó là sự kết tinh của cả một quá trình trăn trở, đổi mới tư duy về đối ngoại trên cơ sở kế thừa truyền thống ngoại giao của dân tộc, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đường lối đó bao hàm nhiều nội dung phong phú, thể hiện một hệ thống các chủ trương, quan điểm của Đảng để chỉ đạo toàn bộ hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại của nước ta thời kỳ đổi mới.
Phát huy sức mạnh tổng hợp, đẩy mạnh công tác đối ngoại, phát huy vai trò của báo chí, truyền thông là một chủ trương và cũng là phương thức rất quan trọng để Đảng, Nhà nước truyền tải những thông tin chính thống về mọi mặt, xây dựng hình ảnh quốc gia, dân tộc Việt Nam trên thế giới, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Những chủ trương, quan điểm chỉ đạo theo tư duy đổi mới của Đảng là cơ sở để Nhà nước thể chế, cụ thể hóa; là định hướng, hành lang pháp lý vững chắc để hệ thống báo chí, truyền thông phát huy vai trò, chức năng của mình, phục vụ hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng.
Trong tình hình mới, tại Đại hội XIII, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải “đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại”(15), góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác đối ngoại. Trên nền tảng những thành tựu đã đạt được, công tác truyền thông đối ngoại trong thời gian tới cần tiếp tục đổi mới tư duy, sáng tạo và chủ động thích ứng, bám sát nhiệm vụ chính trị, nhất là việc quảng bá cơ đồ, tiềm năng của đất nước, góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam./.
_________________________________________________
(1), (2), (3), (4), (5), (6) Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: “Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI”, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vi/nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-cua-dang-1493.
(7) Nguyễn Cơ Thạch, Những chuyển biến trên thế giới và tư duy của chúng ta, Tạp chíQuan hệ Quốc tế, số 1, tháng 1/1990, tr.9.
(8) ĐCSVN (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, H., tr.18.
(9) ĐCSVN, Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương lần thứ ba (khóa VII), phiên khai mạc, họp ngày 18/6/1992.
(10) Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 03-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ ba BCHTW Đảng khoá VII, ngày 29/6/1992 về nhiệm vụ quốc phòng và bảo vệ an ninh quốc gia, chống diễn biến hoà bình của địch, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-vii/nghi-quyet-so-03-nqhntw-hoi-nghi-lan-thu-ba-bchtw-dang-khoa-vii-ngay-2961992-ve-nhiem-vu-quoc-phong-va-bao-ve-an-ninh-1122.
(11), (12) ĐCSVN (2007), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H., T.52, tr.58, 57.
(13)Báo điện tửĐảng Cộng sản Việt Nam: “Nghị quyết số 08 - NQ/TW, ngày 29-11-1993 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước nước ngoài”.
(14) ĐCSVN,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.120.
(15) ĐCSVN,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 164-165.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 1/10/2023
Bài liên quan
- Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
- Tính nhân văn của Đề cương về văn hóa Việt Nam - động lực xây dựng, phát triển văn hóa đất nước bền vững trong thời đại Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực không những góp phần đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng mà còn góp phần đảm bảo phúc lợi cho người lao động. Vì thế, trong quá trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực – yếu tố then chốt để Việt Nam đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển toàn diện, nhanh và bền vững. Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của nguồn nhân lực, Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã có những chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và đã đạt được những kết quả tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Song, bên cạnh những thành tựu, vẫn con những hạn chế nhất định, vì vậy, cần xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng yếu tố quyết định thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lợi thế cạnh tranh của tỉnh hiện nay trong thời gian tới.
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Chiều 31/10, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo sư, Tiến sỹ Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3).
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực không những góp phần đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng mà còn góp phần đảm bảo phúc lợi cho người lao động. Vì thế, trong quá trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực – yếu tố then chốt để Việt Nam đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển toàn diện, nhanh và bền vững. Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của nguồn nhân lực, Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã có những chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và đã đạt được những kết quả tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Song, bên cạnh những thành tựu, vẫn con những hạn chế nhất định, vì vậy, cần xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng yếu tố quyết định thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lợi thế cạnh tranh của tỉnh hiện nay trong thời gian tới.
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp sâu sắc đối với sự phát triển lý luận của Đảng về quyền con người. Những quan điểm của Tổng Bí thư sẽ tiếp tục là nguồn cảm hứng và định hướng quan trọng cho các hoạt động về quyền con người trong thời kỳ mới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Theo thông tin từ Hội đồng chuyên môn bảo vệ sức khỏe cán bộ Trung ương, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sau thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao, bệnh nặng, Đồng chí đã từ trần lúc 13 giờ 38 phút, ngày 19-7-2024, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Hưởng thọ 80 tuổi. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân” của Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Bình luận