Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 – khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam
Là địa đầu của hai chiến tuyến, tỉnh Quảng Trị nói chung, thị xã Quảng Trị, đặc biệt là Thành cổ nói riêng trở thành nơi tập trung sự quan tâm đặc biệt cả về quân sự, chính trị và ngoại giao. Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị “với phương thức tác chiến phòng ngự, bảo vệ một mục tiêu có tính chất chiến lược trong thời điểm có tính nhạy cảm, với điều kiện so sánh lực lượng giữa ta và địch chênh lệch nhau nhiều cả về số quân, trang bị vũ khí hiện đại, phương tiện vật chất trong một thời gian dài, là một thành công đặc biệt xuất sắc”(1).
Cuộc chiến đấu 81 ngày đêm giữ vững Thành cổ trở thành sự kiện quan trọng trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc đấu tranh ngoại giao, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari, mở đường cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, khẳng định lòng yêu nước nhiệt thành, sự hy sinh cao cả cho chính nghĩa, vì sự nghiệp vĩ đại của nhân dân Việt Nam.
Kiên cường chiến đấu với tương quan lực lượng chênh lệch
Sau khi để mất Quảng Trị, Tổng thống Mỹ Ních-xơn một mặt ra lệnh cho Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu phải chiếm lại tỉnh Quảng Trị, một mặt “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh để cứu vãn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đang có nguy cơ sụp đổ. Để ngăn chặn quân ta phát triển tiến công vào phía nam, chính quyền Sài Gòn lập tức tăng quân và hỏa lực, nhanh chóng củng cố tuyến phòng ngự phía nam sông Mỹ Chánh. Đồng thời, lập tuyến phòng ngự phía tây đường 12 để ngăn chặn quân ta tiến công vào Huế nhằm bảo toàn lực lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc phản công lại ở Quảng Trị. Với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, để chắc thắng, Nguyễn Văn Thiệu đã huy động lực lượng tham gia chiến dịch mạnh nhất. Lực lượng phản công gồm: 1 sư đoàn dù, 1 sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, sư đoàn 1 bộ binh, trung đoàn 4 thuộc sư đoàn 2 bộ binh. “Tổng lực lượng gồm 13 trung đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 thiết đoàn và nhiều đơn vị công binh, không quân, hải quân của quân khu 1 hỗ trợ”(2).
Đặc biệt, Mỹ tăng gấp 2 lần số máy bay ném bom chiến lược B52, triển khai lại các lực lượng không quân và hải quân chi viện hỏa lực trực tiếp với mật độ cao và cường độ rất lớn cho cuộc phản công. Chính quyền Sài Gòn hy vọng sẽ nhanh chóng chiếm lại thị xã, cắm cờ lên Thành cổ trước ngày 10.7.1972. Đến ngày 27.6.1972, “địch đã chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt cho cuộc tiến công lớn ra vùng giải phóng nhằm chiếm mục tiêu trước mắt là thị xã và Thành cổ Quảng Trị”(3).
Trước hành động của địch, ngày 27.6.1972, Quân ủy Trung ương thông báo cho Bộ Tư lệnh chiến dịch các hoạt động khẩn trương chuẩn bị tiến công ra Quảng Trị của địch và chỉ thị biện pháp đánh địch của ta phối hợp với đấu tranh ngoại giao. Tối 28.6.1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm: “Chuyển từ chiến dịch tiến công sang chiến dịch phản công nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giữ vững vùng giải phóng, đánh bại cuộc hành quân của địch và phát triển lúc thời cơ có lợi”(4).
Bộ Tư lệnh chiến dịch đã bố trí lực lượng gồm các Sư đoàn 308 (trung đoàn 36, 102, 66, Tiểu đoàn 2 độc lập); 304 (trung đoàn 24, 9, 88, Tiểu đoàn đặc công 35); 320B (trung đoàn 27, 64, 18, các tiểu đoàn 14, 47 địa phương) có nhiệm vụ ngăn chặn các hướng tiến công của địch; Trung đoàn 48, Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương và 3 tiểu đoàn phòng không có nhiệm vụ bảo vệ khu vực thị xã Quảng Trị, La Vang, Ái Tử. Cùng với việc tổ chức lực lượng ở các hướng chiến lược, việc tổ chức sơ tán cho nhân dân ra khỏi vùng có chiến sự ác liệt được thực hiện khẩn trương. Trong một thời gian ngắn, ta đã đưa được “8 vạn dân thị xã và hai huyện Thiệu Phong, Hải Lăng… đến các nơi an toàn”(5). Trước khi bước vào trận chiến mới, mọi công tác chuẩn bị về lực lượng và thế trận chiến đấu của ta cơ bản hoàn thành. Tuy nhiên, thực tế lúc đó do ta chưa nắm chắc và chưa lường hết âm mưu, thủ đoạn và quyết tâm của địch là tái chiếm lại Quảng Trị, nên ta vẫn chưa có kế hoạch phòng ngự, giữ vững vùng giải phóng Quảng Trị. Do đó, lực lượng ban đầu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị do Trung đoàn 48 đảm nhiệm là chính.
Tác chiến phòng ngự, bảo vệ một mục tiêu có tính chất chiến lược, trong một thời điểm chiến lược với điều kiện so sánh lực lượng giữa ta và địch chênh lệch nhau khá lớn trong một thời gian dài, “là một thành công đặc biệt xuất sắc của các lực lượng vũ trang bảo vệ thị xã, Thành cổ và các lực lượng hiệp đồng tác chiến ở vòng ngoài”(6). Vào thời điểm quân ta rút khỏi Thành cổ, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã điện khen: “Cán bộ, chiến sĩ ta rất dũng cảm, nhiệm vụ đã hoàn thành. Lịch sử chống ngoại xâm, giữ Thành lâu như thế, ông cha ta ít làm”(7).
Kiên cường bám trụ, bảo vệ từng tấc đất Thành cổ
Với mục tiêu trước ngày 10.7.1972 cắm cờ lên Thành cổ để phục vụ ý đồ ép ta ở Hội nghị Pari, dự định họp lại vào ngày 13.7.1972 sau nhiều lần trì hoãn, địch điên cuồng đánh phá. Đây là cuộc hành binh đẫm máu, cực kỳ tàn bạo với đủ loại vũ khí hiện đại, từ bom phá, bom napan, bom lân tinh, bom bi, bom 7 tấn, bom điều khiển bằng lade đến các loại pháo chơm, pháo khoan, chất độc hoá học và hơi ngạt… Nhằm mục đích hỗ trợ cho tinh thần quân ngụy, ngoài máy bay chiến thuật, chiến lược oanh tạc theo yêu cầu của bộ binh ở tiền duyên, Mỹ còn cho pháo hạm, pháo mặt đất tầm xa bắn tới hai vạn viên đạn suốt một ngày. Với chiến thuật “chậm chắc” mỗi khi gặp quân ta, quân địch dừng lại, đội bom, pháo vào rồi mới tổ chức tiến công tiếp.
Suốt 81 ngày đêm, ngày nào địch cũng tiến hành rất nhiều trận đánh bằng bom pháo, bằng bộ binh có xe tăng, xe thiết giáp, xe phun lửa yểm trợ cho lính dù, lính thuỷ đánh bộ, lính biệt động tiến công, chỉ xoay quanh một tòa thành không đầy 300.000m2, trong một thị xã với diện tích gần 4km2, nhà cửa đổ nát, không một bóng người… Trong khi đó, quân ta, trừ mấy tiểu đoàn của Tỉnh đội Quảng Trị, đại bộ phận đều chưa thông thạo địa hình, phải vừa đánh vừa quan sát hiệp đồng nhưng đã phát huy trí thông minh của từng cấp mà tạo ra cách đánh phù hợp, không chịu phòng thủ thụ động mà liên tục cải thiện thế phòng thủ, vừa giữ chốt vừa xuất kích phản kích, tập kích tìm địch mà đánh. Chính cách đánh sáng tạo của ta đã tạo ra “cái tốc độ rùa bò”(8) 81 ngày đêm từ sông Mỹ Chánh tới Thành cổ của những lực lượng cơ động chiến lược hàng đầu của địch.
Trước sức mạnh tàn phá, huỷ diệt điên cuồng của địch, có ngày “địch đã trút vào mảnh đất nhỏ hẹp này 13.000 đạn pháo, hàng ngàn tấn bom… Tính bình quân, mỗi người dân phải chịu 250 quả đạn pháo”(9). Tuy nhiên, quán triệt chỉ thị của Bộ Chính trị về ý nghĩa cuộc chiến đấu ở Quảng Trị là “trận quyết chiến có tầm quan trọng lớn về chính trị và về chiến lược”(10), chúng ta đã kiên cường bám trụ, nhiều trận phản kích đẫm máu của bộ đội ta diễn ra dưới chân Thành cổ. Ngay từ những ngày đầu chiến dịch phòng ngự Thành cổ Quảng Trị, có thời điểm “các chiến sĩ Trung đoàn 48 đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm “1 chọi 100” đánh quỵ Lữ đoàn 2 dù”(11).
Trong trận địa đang nghiêng ngả, chao đảo vì bom đạn của địch, bộ đội ta vẫn kiên cường đánh trả. Trong đó, “có ngày Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 3 đánh lui 13 đợt tiến công của địch. Chiến sĩ Phan Văn Ba (Tiểu đoàn 3) bị thương nát một bàn tay vẫn kiên quyết xin ở lại chiến đấu”(12). Tình trạng thiếu thốn, khó khăn do tiếp tế vũ khí đạn dược, hậu cần gặp khó khăn như giai đoạn “đầu tháng 8, chiến sĩ ta phải sống bằng lương khô, nước lã, bắn dè xẻn từng viên đạn trong vòng vây địch”(13) cũng không làm nhụt ý chí, quyết tâm của bộ đội ta.
Tuy nhiên, do hỏa lực của địch quá mạnh, phòng tuyến vòng ngoài của ta bị vỡ dần. Từ đầu tháng 9.1972, cuộc chiến đấu đã diễn ra vô cùng ác liệt trong lòng thị xã và Thành cổ Quảng Trị. Ta và địch giành nhau từng căn nhà, góc phố, từng mảng tường Thành cổ. Thời tiết lúc này không thuận lợi, áp thấp nhiệt đới liên tục xảy ra, nước sông Thạch Hãn dâng cao, cả thị xã chìm trong biển nước. Lợi dụng tình hình đó địch tăng cường bắn phá vào công sự của ta. Các chiến sĩ của ta vừa thay nhau tát nước chống ngập công sự, vừa chống trả địch, suốt ngày ngâm mình trong nước, ăn lương khô, uống nước lã nên sức khoẻ giảm sút, thương vong rất lớn. Trước tình thế đó, quân ta được lệnh rút lui sang sông Thạch Hãn vào 18 giờ, ngày 16.9.1972.
Từ một thị xã nhỏ ít ai biết đến, Quảng Trị trở thành trung tâm thu hút sự chú ý của nhân dân cả nước và thế giới bởi sự hung bạo của kẻ thù và tinh thần anh dũng vô song của đồng bào, chiến sĩ ta. Địch đã huy động vào đây những sư đoàn thiện chiến nhất, những đơn vị binh chủng được trang bị tối tân, hiện đại nhất, được chi viện tối đa hỏa lực với khối lượng bom đạn tương đương “7 quả bom nguyên tử ném xuống Hirosima”. Nhưng quân ta đã làm chủ thị xã trong một thời gian dài, “diệt hơn 24.000 tên địch, phần lớn là quân dù và thuỷ quân lục chiến, bắn rơi 180 máy bay, phá huỷ 140 xe quân sự trong đó có 90 xe tăng, xe bọc thép, 20 khẩu pháo cùng nhiều đồ dùng quân sự khác. Riêng lực lượng vũ trang tỉnh từ 28.6.1972 đến 16.9.1972 đã đánh 642 trận…”(14). Không có sự so sánh nào nói lên hết sự khốc liệt của chiến tranh nhưng “nếu đem so với tất cả các trận đánh phòng ngự đô thị đã diễn ra trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam thì đây là đợt tác chiến dài ngày nhất và cũng là quyết liệt nhất”(15). Tất cả sự hy sinh ấy đều vì độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam.
Sáng ngời chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
Trải qua 81 ngày đêm chiến đấu (thời gian kéo dài gấp tám lần dự kiến ban đầu của Mỹ - ngụy), phải chịu đựng hàng trăm ngàn tấn bom đạn các loại, nhưng với ý chí “bộ đội còn, Quảng Trị còn”, nhiều trận đánh giáp lá cà để giành giật từng căn hầm, đoạn hào, điểm chốt với địch, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ trên mặt trận Quảng Trị đã thực sự trở thành một tập thể anh hùng. Tinh thần, nghị lực, ý chí chiến đấu trong 81 ngày đêm dưới mưa bom, bão đạn khốc liệt của kẻ thù, các đơn vị bộ đội của ta đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, kiên cường bám trụ, chốt giữ và giành giật với địch từng mét chiến hào, từng đống đổ nát; mưu trí, linh hoạt, phát hiện và tiêu diệt nhiều sinh lực địch, thậm chí tiêu diệt cả những bộ phận nhỏ, lẻ, bí mật lẻn vào bằng đường hầm nhằm cắm cờ trên Thành cổ. Qua gần 3 tháng chiến đấu anh dũng, kiên cường, các lực lượng hoàn thành nhiệm vụ chiến lược được giao, làm thất bại ý đồ nhanh chóng “tái chiếm Thành Cổ” của Mỹ - ngụy, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ đấu tranh chính trị, ngoại giao.
Hơn 4.000 anh hùng liệt sĩ đã anh dũng chiến đấu và nằm lại nơi Thành cổ, tinh thần kiên cường chiến đấu và niềm tin quyết thắng của những người lính khi tuổi còn đôi mươi đã khẳng định ý chí sắt đá của con người trước bom đạn và điều kiện sống khắc nghiệt nhất của chiến tranh. Sự hy sinh của họ là câu trả lời ngắn gọn, rõ ràng nhất, cảm động nhất, thức tỉnh lương tri nhân loại về khát vọng cháy bỏng “độc lập, tự do, thống nhất” cho cả dân tộc.
Sự hy sinh ấy đã làm sáng ngời chân lý: cái chết không làm chùn bước những người con yêu nước, vũ khí của kẻ thù dù có tối tân đến đâu cũng phải khuất phục trước những con người có ý chí thép gang và lòng quả cảm, sẵn sàng hy sinh vì độc tập, tự do là khát vọng của cả dân tộc và để có độc lập, tự do thì họ sẵn sàng đánh đổi tính mạng của mình, chấp nhận và khắc phục mọi khó khăn, trở ngại về điều kiện sống, như lời của Tổng Bí thư Lê Duẩn trong lần về thăm Thành cổ đã viết: “Chúng ta đã chịu đựng được không phải vì chúng ta là gang thép, vì gang thép cũng chảy với bom đạn của chúng. Mà chính chúng ta là những con người, những con người thật sự - những con người Việt Nam, với truyền thống 4.000 năm đã giác ngộ sâu sắc trách nhiệm trọng đại trước Tổ quốc, trước thời đại”(16). Chính tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập, tự do, thống nhất và một cuộc sống hoà bình, với ý thức về cội nguồn dân tộc đã khiến sức mạnh con người chiến thắng sự tàn phá của vũ khí, bom đạn ác liệt của kẻ thù.
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm oanh liệt đã góp phần quan trọng đánh bại những cố gắng cao nhất của Mỹ - ngụy, tác động trực tiếp đến Hội nghị Pari. Ngày 27.1.1973, Hiệp định Pari được ký kết, những hy sinh của quân và dân ta trong 81 ngày đêm ấy, cùng với những chiến công khác trong năm 1972 đã phần nào được hiện thực hoá trong Hiệp định. Tuy nhiên, nhân dân ta vẫn phải tiếp tục đấu tranh hai năm gian khổ, mất mát, hy sinh mới tới ngày toàn thắng năm 1975 và được sống trong nền độc lập, tự do mà cả dân tộc cùng đoàn kết đồng lòng, đánh đổi bằng rất nhiều máu xương để giành lại.
Ý chí, khát vọng độc lập tự do của dân tộc được hiện thực hóa bằng sự hy sinh của quân và dân ta trong 81 ngày đêm kiên cường bám trụ bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Đó cũng là ý chí chung của cả dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trường kỳ 21 năm. Sau ngày toàn thắng 30.4.1975, non sông thu về một mối, đất nước ta bắt tay vào khắc phục hậu quả do chiến tranh để lại và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
81 ngày đêm “hoa lửa” bảo vệ Thành cổ Quảng Trị đã trở thành huyền thoại. Sự hy sinh, mất mát của quân dân cả nước nói chung, quân dân Quảng Trị nói riêng làm sáng ngời chân lý “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” và “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Từ trong bom đạn ấy, hàng nghìn tấm gương anh hùng liệt sĩ đã trở thành những bài học thực tiễn sinh động về lòng quả cảm, về chủ nghĩa yêu nước, về truyền thống anh hùng cách mạng. Trên cơ sở đó, chúng ta tiếp tục “giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”(17)… để thế hệ trẻ hôm nay thêm tự hào, kính trọng, biết ơn lớp lớp cha anh đi trước, nguyện tiếp nối truyền thống quý báu ấy của dân tộc; đồng thời, thấm nhuần tư tưởng “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam”(18) để đóng góp sức mình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa phát triển giàu mạnh, tự lực, tự cường./.
________________________________________
(1), (8), (16) Tỉnh ủy Quảng Trị - Bộ Quốc phòng (2012), 40 năm giải phóng tỉnh Quảng Trị và chiến đấu bảo vệ Thành cổ (1972 - 2012), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.20,191,788.
(2), (3), (4), (5), (6), (7), (15) Viện Lịch sử quân sự (2006), Tổng kết tác chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 20, 22, 26, 29, 129, 128, 127.
(9), (11), (12), (13), (14) Thường vụ Đảng ủy và Ban Chấp hành quân sự tỉnh Quảng Trị (1998), Quảng Trị - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), tr. 213,211,213,214,215.
(10) Viện Sử học (2014), Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, T.13, tr. 362.
(17) ĐCSVN (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.1, tr.143.
(18) Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.22.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 19.07.2022
Bài liên quan
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
- Quản trị thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
- Thông tin về hoạt động kinh tế của người dân khu vực nông thôn trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
- Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên (từ thực tiễn thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa)
- Giải pháp đổi mới hoạt động truyền thông phòng, chống tin giả tại các trường trung học phổ thông hiện nay
Xem nhiều
-
1
Video Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền lần thứ XII, nhiệm kỳ 2025-2030
-
2
[Video] Khai mạc Hội Báo toàn quốc 2025
-
3
Đồng chí GS,TS Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng uỷ, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền lần thứ XII, nhiệm kỳ 2025 - 2030
-
4
Đại hội Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền lần thứ XII, nhiệm kỳ 2025-2030 thành công tốt đẹp
-
5
Hoạt động truyền thông của các câu lạc bộ tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Học viện Ngoại giao
-
6
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi gắn liền với cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
100 năm báo chí cách mạng Việt Nam đồng hành, phát triển cùng đất nước
Từ số ra đầu tiên ngày 21/6/1925, Báo Thanh Niên - Cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, là dấu mốc lịch sử, khẳng định báo chí cách mạng Việt Nam ra đời là tất yếu, đáp ứng nhu cầu bức thiết của quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đến nay, báo chí luôn trở thành lực lượng nòng cốt, tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, luôn đồng hành với mỗi chặng đường cách mạng của dân tộc
Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Trong bức tranh truyền thông hiện đại, hình ảnh người phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS) Việt Nam đang dần được tái hiện với nhiều sắc thái mới, giàu tính biểu cảm và phản ánh đa dạng vai trò của họ trong đời sống đương đại. Tại Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), việc quản lý, thể hiện và lan tỏa hình ảnh phụ nữ DTTS trên các sản phẩm báo ảnh ngày càng được chú trọng cả về chiều sâu nội dung lẫn chất lượng hình thức. Không chỉ đơn thuần là những khuôn hình đặc tả trang phục truyền thống hay lao động thường nhật, các sản phẩm báo ảnh tại đây còn hướng tới việc khắc họa chân dung người phụ nữ dân tộc với vai trò chủ thể phát triển – là cán bộ, trí thức, doanh nhân, nghệ nhân... Bài viết phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm quản lý tốt hình ảnh phụ nữ DTTS trên các sản phẩm báo ảnh của TTXVN hiện nay.
Quản trị thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Quản trị thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi sau đại dịch và chuyển mình mạnh mẽ trong giai đoạn chuyển đổi số, việc truyền thông hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trở thành một yêu cầu cấp thiết. Báo mạng điện tử với ưu thế về tốc độ, khả năng cập nhật và tính tương tác đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc định hướng nhận thức và hành vi của cộng đồng doanh nghiệp. Bài viết này phân tích thực trạng quản trị thông tin về chính sách hỗ trợ DNNVV trên một số báo mạng điện tử chuyên ngành tài chính - đầu tư ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra những điểm mạnh, hạn chế và đề xuất giải pháp quản trị thông tin, nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách kinh tế - cụ thể là chính sách hỗ trợ DNNVV trên báo mạng điện tử, trong thời gian tới.
Thông tin về hoạt động kinh tế của người dân khu vực nông thôn trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Thông tin về hoạt động kinh tế của người dân khu vực nông thôn trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Báo mạng điện tử Việt Nam, với lợi thế về tính tích hợp đa phương tiện, tốc độ cập nhật và khả năng tương tác tức thời, đã trở thành nền tảng quan trọng trong việc kết nối và chuyển tải thông tin hai chiều đến với khu vực nông thôn. Nhiều báo lớn đã mở các chuyên mục về nông nghiệp, kinh tế nông thôn, khởi nghiệp nông nghiệp, cùng với đó là số lượng các bài viết về kinh tế nông thôn ngày càng nhiều, nội dung ngày càng đa dạng, tích cực ứng dụng đa phương tiện để thông tin hấp dẫn hơn, tăng cường tương tác với độc giả. Trên cơ sở khảo sát ba tờ báo điện tử là Dân Việt, Vietnamnet và Nhân Dân điện tử trong năm 2024, bài viết phân tích vai trò, hiệu quả thông tin về hoạt động kinh tế của người dân khu vực nông thôn trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thông tin về lĩnh vực này trong thời gian tới.
Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên (từ thực tiễn thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa)
Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên (từ thực tiễn thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa)
Trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam, con người luôn được xác định là trung tâm, là chủ thể và là mục tiêu của mọi chiến lược phát triển. Trong các nhóm xã hội, thanh niên – với tư cách là một bộ phận dân số có quy mô lớn, có trí tuệ, khát vọng cống hiến và khả năng thích ứng cao – giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu phát triển con người toàn diện, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó thanh niên là lực lượng xung kích, tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc. Quá trình tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng cũng chịu nhiều thách thức, nhất là trong bối cảnh mới như cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, những tác động hậu COVID-19, và chủ trương tinh giản bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay. Là một trong những địa bàn có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh, đặc biệt về mảng du lịch – dịch vụ, để trở thành trung tâm du lịch chất lượng cao của khu vực Bắc Trung Bộ, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa cần một lực lượng lao động trẻ có chất lượng, năng động, chuyên nghiệp và có ý thức chính trị – xã hội vững vàng.
Bình luận