Giá trị bình đẳng – tiêu chí quan trọng của chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội không tưởng đã đưa ra yêu cầu thủ tiêu chế độ tư hữu tài sản quy về sở hữu toàn xã hội, người người đều tham gia lao động bình đẳng. Chủ nghĩa xã hội khoa học, mở đầu là C. Mác và Ph. Ăng-ghen, nhấn mạnh giá trị bình đẳng bằng thủ tiêu tình trạng người bóc lột người; đề cao sức mạnh tinh thần của nhân dân; làm phong phú tài sản vật chất; mỗi cá nhân trong xã hội được tự do phát triển…
Quan niệm về bình đẳng xã hội
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam (năm 1995), bình đẳng được định nghĩa là sự đối xử như nhau về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, không phân biệt thành phần và địa vị xã hội, trong đó trước tiên và cơ bản nhất là bình đẳng trước pháp luật.
Bình đẳng là các công dân có quyền lợi bình đẳng như nhau. Quyền bình đẳng là một loại quyền lợi cơ bản của công dân. Điều 16, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Mọi người không phân biệt dân tộc, nghề nghiệp, xuất thân gia đình, tôn giáo, trình độ giáo dục, tình trạng tài sản…, đều có quyền bình đẳng. Bình đẳng được quy định trong Hiến pháp và pháp luật, mọi quyền lợi của nhân dân được pháp luật bảo vệ, đối với những hành vi vi phạm phải căn cứ vào pháp luật để truy cứu; không có đặc quyền trước pháp luật; công dân đều có trách nhiệm của mình và có nghĩa vụ chấp hành pháp luật.
Bình đẳng có nghĩa là các quyền lợi về sinh tồn được tôn trọng, bao gồm quyền sinh mệnh, quyền khỏe mạnh, quyền có danh tiếng, quyền bầu cử, quyền có tài sản... Trong xã hội, con người không phân biệt giàu - nghèo, không phân biệt có tri thức cao hay thấp, nhân cách của công dân là bình đẳng. Hiến pháp năm 2013 quy định nhân cách của công dân Việt Nam được tôn trọng.
Bình đẳng có nghĩa là cơ hội trước mọi người là bình đẳng. Trong nhiều trường hợp cơ hội quyết định vận mệnh đem đến sự thành công cho con người. Do đó, mọi người đều phải có quyền tham dự, có quyền lựa chọn, có quyền cạnh tranh bình đẳng. Bình đẳng có tính cụ thể và tính lịch sử. Quan niệm bình đẳng thuộc về kiến trúc thượng tầng, phản ánh quan hệ kinh tế nhất định trong điều kiện lịch sử nhất định. Có điều kiện vật chất như thế nào là có quan niệm bình đẳng như thế ấy. Xã hội nguyên thủy do điều kiện sức sản xuất thấp, không có áp bức và nô dịch, không có khác biệt về giai cấp và giàu nghèo, các thành viên thị tộc lao động tập thể... chính là sinh hoạt bình đẳng nguyên thủy. Đặc trưng quan trọng xã hội nô lệ và xã hội phong kiến là chế độ đẳng cấp. Dưới chế độ xã hội này căn bản không tồn tại quan niệm bình đẳng. Giai cấp tư sản đề xướng khẩu hiệu người người bình đẳng, nhưng là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất quyết định bình đẳng của giai cấp tư sản chẳng qua là "bình đẳng" đặc quyền, chỉ dành riêng cho giai cấp tư sản. C. Mác chỉ ra sự bóc lột người lao động là nhân quyền đầu tiên của tư bản.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất khiến cho người dân trở thành chủ nhân thực sự của xã hội và quốc gia. Người dân có quyền lợi kinh tế, chính trị, xã hội bình đẳng và bình đẳng đã trở thành đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội, trở thành yêu cầu nội tại phát triển của xã hội. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, người dân là chủ nhân có quyền bình đẳng trong quản lý quốc gia và các công việc xã hội. Bất luận là trong các mục tiêu giá trị của quốc gia, hay trong giá trị của từng công dân, bình đẳng luôn là tiêu chí quan trọng, là giá trị không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.
Bình đẳng là cơ sở duy trì công bằng, tiến bộ xã hội. Công bằng, tiến bộ là yêu cầu nội tại của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Công bằng bao hàm yếu tố bình đẳng. Mỗi cá nhân đều bình đẳng về quyền lợi, về lợi ích. Xã hội xã hội chủ nghĩa lấy con người làm trung tâm bảo vệ quyền bình đẳng của người dân, bảo đảm mỗi cá nhân được tôn trọng về quyền, lợi ích chính đáng. Công bằng quyền lợi, công bằng cơ hội chính là nội dung chủ yếu của công bằng xã hội, xây dựng môi trường xã hội công bằng, để bảo đảm người dân được tham dự bình đẳng, phát triển bình đẳng và có những quyền lợi bình đẳng. Bình đẳng là động lực phát triển xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa chủ trương người người bình đẳng trong chính trị, kinh tế… là động lực động viên xã hội phát triển.
Cơ sở căn bản của pháp luật là “người người bình đẳng trước pháp luật”. Không có cơ sở căn bản này, pháp quyền sẽ bị lợi dụng, pháp luật mất đi tính quyền uy. Do đó, cần thúc đẩy toàn diện việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó, tất yếu đề cao giá trị bình đẳng. Tất cả công dân đều tôn trọng sự nghiêm minh và phải có ý thức, trách nhiệm chấp hành Hiến pháp và pháp luật, không lấy niềm tin để thay pháp luật, lấy quyền lực để áp chế pháp luật, câu kết tư quyền để bẻ cong pháp luật.
Bình đẳng là tiền đề trao đổi, giao lưu giữa con người với nhau. Bình đẳng trong giao lưu giữa con người là không lấy quyền lực để áp chế, lấy mạnh áp bức yếu, mà tôn trọng, không làm hại và xâm phạm đến lợi ích của người khác. Thái độ đối xử bình đẳng này là tiền đề xây dựng quan hệ giữa con người với nhau. Mỗi cá nhân đều phải tôn trọng người khác trong giao tiếp, ứng xử giữa con người với nhau. Bình đẳng có tiền đề là tôn trọng người khác và cũng có hướng đích là tôn trọng người khác.
Trong lĩnh vực chính trị, lấy kiên trì địa vị chủ thể của nhân dân làm nội dung trọng tâm của các cải cách thể chế chính trị. Đổi mới và hoàn thiện chế độ bầu cử, bảo đảm quyền bầu cử của công dân và bình đẳng trong bầu cử. Bảo đảm quyền tham dự của công dân vào sinh hoạt chính trị của quốc gia, các quyết sách lớn của đất nước; mở rộng và kiện toàn các cơ chế để đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát; loại bỏ các loại tiêu cực, tham ô, đặc quyền đặc lợi.
Trong lĩnh vực pháp luật, bảo đảm mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Các tổ chức và cá nhân có quyền lợi và nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật đều bị truy cứu.
Trong kinh tế, thực hiện công bằng, hiệu quả, điều tiết hợp lý phân phối thu nhập, hạn chế phân cực xã hội, thúc đẩy chế độ an sinh xã hội. Quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, nhất là tập trung xây dựng hệ thống cơ sở vật chất y tế, giáo dục, hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng yếu thế, trợ cấp thất nghiệp...
Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, người dân đều hy vọng thực hiện bình đẳng xã hội, nhưng trước khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời, đối với đông đảo quần chúng, nhất là quần chúng lao động, bình đẳng thật sự vẫn chỉ là lý tưởng.
Trong xã hội nguyên thủy, trong nội bộ thị tộc, mọi người tham gia lao động công bằng, phân phối lợi ích hợp lý, nhưng khi đó chưa có ý thức bình đẳng, mà là để duy trì sự sống và sinh nở phát triển nòi giống. Thời kỳ cuối xã hội nguyên thủy, do phát triển bước đầu của lực lượng sản xuất, sản phẩm vật chất được sản xuất ra dần tăng lên nhiều, những sản phẩm vật chất ấy không thể lập tức ăn hết, dùng hết ngay được, mà có dư thừa. Sản phẩm dư thừa bắt đầu là tập thể thị tộc chiếm hữu công cộng, về sau dần chuyển biến thành do tư nhân chiếm hữu, làm xã hội dần nảy sinh chế độ tư hữu tài sản, phát sinh phân hóa giàu nghèo, hiện tượng bóc lột kinh tế giữa con người. Hiện tượng bóc lột trong xã hội cũng dần phổ biến, phân chia theo địa vị kinh tế khác nhau, hình thành giai cấp khác nhau. Sau khi xã hội loài người tiến vào xã hội có giai cấp, thì mất đi trạng thái đời sống xã hội người người bình đẳng, phân phối hợp lý (phân phối theo nhu cầu sinh tồn) của xã hội nguyên thủy.
Trong xã hội có giai cấp, khi trình độ lực lượng sản xuất không cao, thì khó thực hiện được bình đẳng xã hội chân chính, phổ biến. Chỉ có xã hội xã hội chủ nghĩa với trình độ phát triển lực lượng sản xuất rất cao mới có thể thúc đẩy và bảo đảm có hiệu quả bình đẳng chân chính và phổ biến.
Lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa đã ứng dụng khoa học - kỹ thuật hiện đại đặt cơ sở vật chất khá hùng hậu cho thúc đẩy và bảo đảm bình đẳng chân chính, phổ biến. Trên cơ sở lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa, có thể xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa lấy chế độ công hữu tư liệu sản xuất làm cơ sở, dần dần thúc đẩy mọi người bình đẳng với nhau ở vị trí kinh tế. Lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa phát triển với tốc độ nhanh dần thu hẹp khoảng cách điều kiện sinh hoạt giữa người với người, nhất là những người có khác biệt địa vị xã hội, điều kiện tiếp nhận giáo dục và về nhiều phương diện khác. Đồng thời, lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa phát triển không ngừng có thể tăng đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng công cộng, xây dựng hệ thống an sinh xã hội, cung cấp điều kiện sinh hoạt công cộng tốt đẹp cho tất cả mọi người trong xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa còn cung cấp cơ hội việc làm nhiều hơn, bảo đảm việc làm đầy đủ cho mọi người.
Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội mà nhân dân làm chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, cán bộ lãnh đạo chính quyền các cấp phải làm công bộc của nhân dân. Chế độ xã hội chủ nghĩa động viên nhân dân đoàn kết, giúp đỡ nhau chung sống hài hòa. Đích hướng tới cuối cùng của chế độ xã hội chủ nghĩa là thực hiện phát triển tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi thành viên xã hội.
Tuy nhiên, để làm cho trình độ lực lượng sản xuất dần nâng cao, chế độ xã hội chủ nghĩa dần hoàn thiện, việc này phải trải qua một quá trình lâu dài. Do đó, bình đẳng của chủ nghĩa xã hội cũng tất nhiên phải trải qua một quá trình phát triển dần từ bậc thấp tới bậc cao. Và ở mỗi giai đoạn khác nhau sẽ có mục tiêu giá trị bình đẳng khác nhau.
Giải pháp bảo đảm bình đẳng xã hội
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa nước ta đang xây dựng đã phát huy tác dụng tích cực, thúc đẩy và bảo vệ bình đẳng xã hội. Lực lượng sản xuất và nền kinh tế phát triển đã và đang tạo điều kiện vật chất cho bảo đảm bình đẳng xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hiện tượng bất bình đẳng, như còn khoảng cách về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn; phân hóa giàu nghèo; còn hiện tượng không công bằng phân phối thu nhập; một bộ phận người dân còn gặp khó khăn về việc làm, chữa bệnh, giáo dục, nhà ở… Vì vậy, để thực hiện bình đẳng xã hội trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần tập trung thực hiện một số định hướng và giải pháp:
Thứ nhất, để thúc đẩy và bảo đảm bình đẳng xã hội, phải kiên trì lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, nỗ lực phát triển lực lượng sản xuất. Nghèo khó không thể thực hiện được bình đẳng chân chính, phổ biến... Chỉ có nỗ lực phát triển lực lượng sản xuất, sáng tạo ra của cải vật chất ngày càng phong phú, mới có khả năng không ngừng nâng cao chất lượng đời sống vật chất và văn hóa cho người dân, có điều kiện đầu tư tài chính để xây dựng kết cấu hạ tầng công cộng xã hội, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, từ đó mới tạo ra bình đẳng.
Thứ hai, để thúc đẩy và bảo đảm bình đẳng xã hội phải tăng cường hơn nữa việc bảo đảm quyền và lợi ích về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân. Cụ thể:
Đẩy mạnh xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện xã hội hiện đại, không có dân chủ và pháp trị, không thể có bình đẳng chân chính.
Hoàn thiện chế độ phân phối thu nhập. Đây là then chốt của bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội.
Hoàn thiện các dịch vụ vụ công ích. Khoảng cách giàu nghèo không chỉ là vấn đề khoảng cách thu nhập kinh tế của từng công dân, mà còn thể hiện trong thụ hưởng các dịch vụ công cộng cơ bản.
Phải chú ý cải thiện dân sinh, hoàn thiện chế độ an sinh xã hội, kiện toàn hệ thống bảo đảm công bằng xã hội. Chế độ an sinh xã hội trực tiếp thể hiện bình đẳng xã hội.
Thứ ba, để thúc đẩy và bảo đảm bình đẳng xã hội, phải đẩy mạnh giáo dục tuyên truyền về bình đẳng, động viên sức mạnh của toàn xã hội./.
______________________
Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 11.12.2020
PGS,TS Mai Hải Oanh
Tạp chí Cộng sản
Nguồn: https://www.tapchicongsan.org.vn
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 3 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Một số phương tiện truyền thông mới trên nền tảng web 3.0 hiện nay
Sự phát triển của công nghệ số đã và đang tạo ra nhiều sự đổi mới trong lĩnh vực truyền thông. Các phương tiện truyền thông mới được công chúng đón nhận theo các mức độ khác nhau. Trong đó phải kể đến các mạng xã hội với các ứng dụng trí tuệ nhân tạo, khai phá dữ liệu lớn và vạn vật kết nối mạng lại nhiều điều mới mẻ. Do tính chất cộng đồng của mạng xã hội, người sử dụng đóng vai trò quan trọng trong hệ thống thông qua dữ liệu, sự tương tác, quyền sở hữu thông tin và hành vi trong cộng đồng mạng. Bài viết tiến hành nghiên cứu những tính năng, đặc thù của Web 3.0 để từ đó nhận diện đặc trưng của một số phương tiện truyền thông mạng xã hội mới, đã và đang tạo ra trào lưu và xu hướng hiện nay.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận