Một số kinh nghiệm từ thực tiễn công tác dân vận trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
Công tác dân vận thực chất là quá trình hiện thực hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến từng con người, từng việc làm, từng đơn vị cụ thể... Do vậy là một đòi hỏi khách quan, là nhu cầu tự thân của công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Tây Nguyên. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Nhằm phát huy những lợi thế so sánh, khắc chế yếu kém, tiêu cực ở một địa bàn rộng lớn và có nhiều đặc thù như Tây Nguyên, chữ “khéo” trong công tác dân vận càng đòi hỏi mức độ cao hơn. Những nội dung sau có thể xem là kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn công tác dân vận ở một số địa phương vùng Tây Nguyên thời gian qua.
Một là, Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đảm bảo công tác dân vận hoạt động đúng hướng, hiệu quả.
Thực tế những năm gần đây ở Tây Nguyên cho thấy, nơi nào cấp ủy và người đứng đầu nhận thức đúng, nghiêm túc triển khai các văn bản của Đảng, Nhà nước thì ở địa phương đó kết quả mọi mặt tốt hơn, nội bộ đoàn kết, quan hệ giữa Đảng và dân khăng khít hơn. Ngược lại, những nơi cấp ủy không quan tâm đến công tác dân vận, cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, có sai phạm, nội bộ mất đoàn kết kéo dài, thì không những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội không hoàn thành, dân chủ không được phát huy mà còn làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác dân vận.
Hai là, Triển khai thực hiện một cách khoa học, thường xuyên, đồng bộ, thống nhất Quy chế công tác dân vận từ Trung ương đến cơ sở theo hệ thống chính trị.
Công tác dân vận là một khoa học - khoa học về con người; một nghệ thuật - nghệ thuật tiếp cận và vận động con người. Vì thế, phải dày công tìm tòi, suy nghĩ để phân tích chính xác tình hình, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn sinh động để vận động nhân dân có hiệu quả. “Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang” đều phải tham gia công tác dân vận. Cần tăng cường sự phối hợp, cam kết giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị. Coi trọng công tác dân vận của chính quyền, thực hiện nghiêm túc Điều 27 trong Quy chế về phân công đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân phụ trách công tác dân vận của chính quyền và Chỉ thị 18/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác dân vận của chính quyền. Gắn nội dung công tác dân vận với nội dung các Nghị quyết của Đảng, với cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, cải cách hành chính và những nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể quần chúng, để các tổ chức đó thực sự thu hút sự tham gia hoạt động tự giác của các thành viên qua các phong trào thi đua. Huyện, tỉnh phải tăng cường, bổ sung cán bộ cho nơi thiếu cán bộ cơ sở. Thành lập các tổ, đội công tác đưa cán bộ các ngành, chiến sĩ lực lượng vũ trang xuống tận các buôn/ làng trọng điểm để phát động quần chúng tạo sự đồng thuận xã hội - sức mạnh của cả cộng đồng làm nên thắng lợi. Đây cũng là một bài học kinh nghiệm trong tổ chức triển khai một chủ trương lớn của Đảng.
Ba là, Công tác dân vận phải biết dựa vào dân.
Công tác dân vận lấy việc giác ngộ ý thức địa vị “là chủ” và trách nhiệm “làm chủ” của dân làm nội dung căn bản. Làm cho dân thấy rõ họ vừa là đối tượng của dân vận, vừa là chủ thể quyền lực, là động lực và mục đích của dân vận. Từ đó mới khơi dậy được sức mạnh của toàn dân. Dân là cơ sở chính trị- xã hội của công tác dân vận. Trong công tác dân vận, cần thực hiện phương châm “dân vận dân”. Một số cách dân vận thời gian qua đã phát huy tác dụng rất tốt như: Dùng người từng lầm lỡ theo bọn phản động Fulro, những đối tượng vượt biên trái phép đã nhận rõ sai trái trở về, đưa vào tham gia công tác dân vận; mô hình kết nghĩa giữa các hộ, đoàn thể, thôn/ buôn đồng bào Kinh với đồng bào dân tộc thiểu số; phát huy vai trò của già làng, người có uy tín trong cộng đồng làm dân vận... Đây là kinh nghiệm quý trong công tác dân vận, đồng thời là bài học để cấp ủy Đảng đưa ra những chủ trương vì lợi ích của dân, hợp lòng dân từ việc biết lắng nghe ý nguyện và tôn trọng nhân dân.
Bốn là, Bảo đảm mối quan hệ giữa xây và chống trong công tác dân vận.
Cần lấy những thành tựu phát triển kinh tế- xã hội, những gương người tốt, việc tốt, những cá nhân điển hình làm kinh tế giỏi, tích cực hoạt động xã hội ở cơ sở làm nội dung vận động, bác bỏ luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch, giáo dục nâng cao tinh thần đoàn kết, yêu nước của đồng bào dân tộc, vận động đồng bào "không tin, không nghe, không làm theo lời xúi giục của kẻ xấu". Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện vi phạm quyền làm chủ của nhân dân và các biểu hiện lợi dụng dân chủ, nhân quyền để gây rối, kích động làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Kinh nghiệm được phổ biến trong Hội nghị công tác dân vận Tây Nguyên do Ban Chỉ đạo Tây Nguyên tổ chức là: cam kết với nội dung "6 không, 5 bảo đảm, 4 cùng, 3 thi đua" trở thành một cuộc vận động trong hệ thống dân vận ở mỗi cấp (6 không: Không để nhân dân không có đất sản xuất; Không để nhân dân đói, nhà dột; Không để nhân dân di cư tự do, phá rừng; Không để bọn xấu lợi dụng tôn giáo truyền đạo trái phép; Không để biểu tình bạo loạn, vượt biên trái phép; Không để thôn/ buôn không có đảng viên và các đoàn thể nhân dân. 5 đảm bảo: Sự gắn bó giữa Đảng với dân và đoàn kết nhân dân các dân tộc; Xây dựng vững chắc đội ngũ cốt cán trong các tầng lớp nhân dân; Củng cố tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân; Nắm tâm tư và nguyện vọng của nhân dân; Ổn định chính trị- xã hội và an ninh quốc phòng. 4 cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng học và nói tiếng dân tộc. 3 thi đua: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, làm giàu hợp pháp; Xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng ở thôn, buôn, làng; Xây dựng địa bàn vững mạnh về trật tự an toàn xã hội). Đêm hội thanh niên Tây Nguyên đoàn kết và phát triển, phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của thanh niên tham gia xóa đói giảm nghèo, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; Hội nghị già làng tiêu biểu Tây Nguyên, nêu cao vai trò gương mẫu của già làng trong thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương, với phương châm "Già làng nói, dân làng nghe, già làng hô, dân làng hưởng ứng, già làng làm, dân làng làm theo" là những nhân tố góp phần bảo đảm mối quan hệ giữa xây và chống trong công tác dân vận.
Năm là, Đảm bảo mối quan hệ giữa công tác dân vận với thực hành dân chủ và thực hiện kỷ cương, luật pháp.
Dân chủ chỉ được thực hiện một cách đầy đủ trên nền tảng một xã hội có kỷ cương, có luật pháp; kỷ cương, luật pháp chỉ được thực hiện đầy đủ trong một chế độ dân chủ được mở rộng. Chỉ như vậy, dân chủ mới đích thực, quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm công dân mới được thực hiện một cách đầy đủ. Đồng thời, việc thực hiện dân chủ cũng phụ thuộc vào trình độ dân trí, dân sinh, đặc điểm của từng vùng, từng dân tộc, từng loại hình và trình độ năng lực lãnh đạo của cấp ủy Đảng các cấp. Từ đó, việc tổ chức thực hiện công tác vận động đồng bào cũng phải được xây dựng trên đặc điểm đó để có giải pháp phù hợp cho từng vùng, từng miền, từng dân tộc và các loại hình khác nhau. Đặc biệt là vận dụng hài hòa quan hệ giữa luật pháp và luật tục, không thể thực hiện một cách rập khuôn máy móc.
Sáu là, Thực hiện phương châm kiên trì vận động, thuyết phục làm chính.
Việc thực hiện công tác dân vận ở địa bàn Tây Nguyên, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc tại chỗ là rất cần thiết nhưng không đơn giản, dễ dàng như các địa phương khác. Vì vậy, rất cần có sự chủ động, sáng tạo của cán bộ dân vận để hoạt động này thực sự đạt hiệu quả cao.
Cần gắn công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho quần chúng với tập trung chỉ đạo thực hiện tốt, có hiệu quả các chính sách dân tộc, tôn giáo bằng những việc làm cụ thể, thiết thực như: giải quyết đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, điện thắp sáng, việc làm, thu nhập. Khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của dân, tin và dựa vào dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ sở theo phương châm hành động “gần dân, hiểu dân, nghe dân nói, nói cho dân hiểu và làm cho dân tin”, giúp cho dân vươn lên no ấm tiến bộ; "Tỉnh bám xã, huyện bám thôn, xã bám hộ gia đình để vận động"; lấy thôn/ buôn làm địa bàn hoạt động, lấy hộ gia đình làm đối tượng vận động. Phương pháp vận động phải bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, tiến hành bằng nhiều lực lượng, tùy đối tượng mà vận động chung hay tuyên truyền vận động cá biệt theo hướng "Kiên trì, thận trọng, chắc chắn"; kiềm chế trong những tình huống phức tạp, nảy sinh khi thực hiện nhiệm vụ, lấy người thực, việc thực để giáo dục; nêu bật những thành tựu, đồng thời chỉ rõ những thiếu sót tồn tại, không nói chung chung. Trên cơ sở đó làm chuyển biến nhận thức đối với đồng bào, đặc biệt là tầng lớp trí thức, giới trẻ, phụ nữ; loại trừ những tư tưởng ly khai tự trị, chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch ra khỏi cộng đồng.
Bảy là, Cán bộ dân vận hoạt động trên cơ sở nắm vững quy trình thực hiện dân chủ trực tiếp.
Công tác dân vận trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nên thực hiện theo phương châm: "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Đây là quy trình thực hiện dân chủ được diễn đạt cô đọng, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ với sự sắp xếp hợp lý. Mọi công việc (trong sự nghiệp xây dựng chính quyền, phát triển kinh tế, văn hoá, giải quyết các vấn đề xã hội...) của dân đã được tiến hành theo quy trình "biết- bàn- làm- kiểm tra" trong Pháp lệnh Dân chủ ở cơ sở. Thực ra, quy trình này là sự khoa học hóa, pháp quy hóa công tác dân vận mà Bác Hồ đã dạy cho cán bộ dân vận, thể hiện rõ trong bài báo Dân vận (15/10/1949) của Người. Cán bộ dân vận nắm vững và thực hiện theo quy trình này thường đạt kết quả rất tốt.
Để dân được biết, cán bộ dân vận phải hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của dân, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích và trách nhiệm, quyền hạn và bổn phận. Cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết cho dân. Cần phân biệt những gì dân cần được biết ngay, biết trước; những gì dân chưa cần biết ngay để cung cấp đúng mức, kịp thời.
Để khuyến khích dân bàn, người làm công tác dân vận phải biết khơi dậy và lắng nghe ý kiến của dân. “Bàn” bao gồm bàn để tham gia, bàn để quyết định, bàn để thực hiện. Để tránh hình thức, cần chú ý tạo điều kiện để dân được bàn ngay từ đầu, khi "quyết định" đang còn ở giai đoạn dự thảo.
Để phát huy tính sáng tạo trong khâu dân làm phải có cơ chế đúng và thực hiện bằng luật pháp. Nhiệm vụ của cán bộ dân vận là động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân, phải biết đem tài dân, sức dân, của dân mà làm lợi cho dân. Tức là phải làm sao tổ chức những phong trào thi đua, những hoạt động thiết thực để "dân làm" đạt hiệu quả cao, phục vụ cho lợi ích của chính người dân.
Dân kiểm tra cán bộ, cán bộ kiểm tra dân, dân và cán bộ cùng kiểm tra mọi hoạt động làm căn cứ để đánh giá hiệu quả công việc, biết rõ thành tích, sai phạm thuộc về ai. Thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ, duy trì và đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm, đẩy mạnh mô hình "dân vận khéo" ở khắp các loại hình cơ sở.
Tám là, Chú trọng xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận.
Chất lượng công tác dân vận phụ thuộc rất lớn vào chất lượng cán bộ làm công tác dân vận. Cán bộ dân vận “phải thật thà nhúng tay vào việc”, không được “nói một đằng, làm một nẻo”, là những người “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Vì vậy, cần hết sức quan tâm đến công tác xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận, theo đó:
Đầu tư khâu tìm chọn những người có phẩm chất, năng lực, tận tụy với nhiệm vụ, có năng khiếu về vận động, thuyết phục quần chúng tham gia làm công tác dân vận. Phát huy, động viên già làng, trưởng bản, người có uy tín trong dòng tộc, chức sắc tôn giáo tham gia làm công tác dân vận.
Chú trọng công tác phát triển đảng viên, đoàn viên; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Chọn một số con em gia đình cách mạng, con em cán bộ, con em là người dân tộc thiểu số, có triển vọng cử đi đào tạo tập trung tại các trường có chất lượng, đào tạo chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ dân vận, quản lí nhà nước và lí luận chính trị để tạo nguồn cán bộ dân vận tương lai. Tổ chức các lớp chuyên đề, các hoạt động tham quan, khảo sát, trao đổi kinh nghiệm, tạo điều kiện cho cán bộ tiếp xúc với những mô hình, điển hình, những thông tin mới, nắm bắt kịp thời những nhiệm vụ trọng tâm của từng thời kì để tăng cường năng lực thực tiễn cho đội ngũ cán bộ dân vận. Phải chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận ở cơ sở, coi cơ sở là một trận địa cực kì quan trọng - trận địa lòng dân cần giữ vững; có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất cho đội ngũ cán bộ cơ sở để tạo nguồn cán bộ các cấp.
Trong công tác bố trí, sử dụng cán bộ, cần cố gắng đảm bảo về tiêu chuẩn, bố trí đúng người, đúng việc, đúng sở trường đảm bảo tính liên tục và phát triển, bổ nhiệm đúng lúc, giao việc đúng tầm, khuyến khích cán bộ vươn lên đảm nhiệm công việc. Nâng dần tỉ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số. Vận dụng linh hoạt chính sách sử dụng cán bộ đối với vùng miền núi, thay vì tiêu chuẩn ngoại ngữ đối với cán bộ miền xuôi thì cán bộ dân vận ở Tây Nguyên nhất thiết phải biết tiếng đồng bào. Việc bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ kết hợp chặt chẽ với việc luân chuyển, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ. Thực tế ở Tây Nguyên có tới trên 50% cán bộ không đạt chuẩn, nhưng do điều kiện đặc thù của khu vực này nên không thể thay thế đồng loạt mà phải có tính kế thừa, phải tiếp tục sử dụng những cán bộ cơ sở có kinh nghiệm trong công tác dân vận.
Phải coi trọng công tác đánh giá cán bộ, thực hiện nghiêm công tác nhận xét, đánh giá cán bộ dân vận, phát hiện kịp thời những cán bộ dân vận giỏi, có nhiều đóng góp để khen thưởng thích đáng. Có chế độ ưu đãi về vật chất và tinh thần cho cán bộ làm công tác dân vận.
Thực tế ngày càng kiểm nghiệm sự đúng đắn của nguyên lý "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", "dân là gốc cách mạng". Dựa vào dân, động viên và phát huy sức mạnh của nhân dân, đó là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam và cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Công cuộc đổi mới ngày nay đòi hỏi phải phát huy nội lực là chính, đồng thời hợp tác quốc tế có hiệu quả để tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nguồn nội lực quan trọng nhất là con người, là nhân dân với tất cả sức mạnh vật chất và ý chí, trí tuệ của mình. Nâng cao chất lượng công tác dân vận nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân là tạo ra nguồn nội lực dồi dào ấy./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Dân tộc điện tử ngày 23.4.2021
Bài liên quan
- Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
- Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
- Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi gắn liền với cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Sự đột phá, sáng tạo về tư duy lý luận của Đảng, đưa đất nước khẳng định vị thế trên trường quốc tế
- Thực hành tiết kiệm
Xem nhiều
-
1
[Video] Khai mạc Hội Báo toàn quốc 2025
-
2
Thái độ tiếp nhận của sinh viên đối với các sản phẩm truyền thông tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo trên nền tảng Tiktok
-
3
[Ảnh] Toàn cảnh Lễ khai mạc Hội Báo toàn quốc 2025
-
4
Quản trị thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
-
5
Truyền thông về văn hoá truyền thống trên báo mạng điện tử qua chiến lược kể chuyện đa nền tảng
-
6
Học viện Báo chí và Tuyên truyền tham gia gian trưng bày tại Hội báo toàn quốc 2025
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên (từ thực tiễn thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa)
Trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam, con người luôn được xác định là trung tâm, là chủ thể và là mục tiêu của mọi chiến lược phát triển. Trong các nhóm xã hội, thanh niên – với tư cách là một bộ phận dân số có quy mô lớn, có trí tuệ, khát vọng cống hiến và khả năng thích ứng cao – giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu phát triển con người toàn diện, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó thanh niên là lực lượng xung kích, tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc. Quá trình tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng cũng chịu nhiều thách thức, nhất là trong bối cảnh mới như cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, những tác động hậu COVID-19, và chủ trương tinh giản bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay. Là một trong những địa bàn có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh, đặc biệt về mảng du lịch – dịch vụ, để trở thành trung tâm du lịch chất lượng cao của khu vực Bắc Trung Bộ, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa cần một lực lượng lao động trẻ có chất lượng, năng động, chuyên nghiệp và có ý thức chính trị – xã hội vững vàng.
Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia có ý nghĩa to lớn, là yếu tố then chốt để thúc đẩy sự phát triển đất nước. Việc xây dựng và duy trì không gian mạng an toàn, ổn định và tự chủ sẽ là nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững, cho sự vươn mình của dân tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
Việt Nam có 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân tộc thiểu số với trên 14 triệu người, chiếm khoảng 14,7% dân số cả nước, sinh sống thành cộng đồng, cư trú xen kẽ, tập trung chủ yếu ở các khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, duyên hải miền Trung và Tây Nam Bộ. Trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở nước ta, người có uy tín có vai trò quan trọng trong triển khai đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, là nòng cốt trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, giữ vững chủ quyền, an ninh, trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và khu vực biên giới.
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi gắn liền với cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi gắn liền với cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Khẳng định những cống hiến vĩ đại của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, Đại hội IV của Đảng đã viết: “Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ qua mãi mãi gắn liền với tên tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh…”(1). Bài viết khẳng định những cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi là biểu tượng bất diệt của tinh thần yêu nước và khát vọng độc lập, tự do và là nguồn cổ vũ to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Sự đột phá, sáng tạo về tư duy lý luận của Đảng, đưa đất nước khẳng định vị thế trên trường quốc tế
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Sự đột phá, sáng tạo về tư duy lý luận của Đảng, đưa đất nước khẳng định vị thế trên trường quốc tế
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thành quả lý luận quan trọng sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm thế giới. Tuy nhiên, hiện các thế lực thù địch, phản động đang hằng ngày, hằng giờ tìm mọi cách chống phá, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bình luận