Một số kinh nghiệm từ thực tiễn công tác dân vận trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
Công tác dân vận thực chất là quá trình hiện thực hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến từng con người, từng việc làm, từng đơn vị cụ thể... Do vậy là một đòi hỏi khách quan, là nhu cầu tự thân của công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Tây Nguyên. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Nhằm phát huy những lợi thế so sánh, khắc chế yếu kém, tiêu cực ở một địa bàn rộng lớn và có nhiều đặc thù như Tây Nguyên, chữ “khéo” trong công tác dân vận càng đòi hỏi mức độ cao hơn. Những nội dung sau có thể xem là kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn công tác dân vận ở một số địa phương vùng Tây Nguyên thời gian qua.
Một là, Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đảm bảo công tác dân vận hoạt động đúng hướng, hiệu quả.
Thực tế những năm gần đây ở Tây Nguyên cho thấy, nơi nào cấp ủy và người đứng đầu nhận thức đúng, nghiêm túc triển khai các văn bản của Đảng, Nhà nước thì ở địa phương đó kết quả mọi mặt tốt hơn, nội bộ đoàn kết, quan hệ giữa Đảng và dân khăng khít hơn. Ngược lại, những nơi cấp ủy không quan tâm đến công tác dân vận, cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, có sai phạm, nội bộ mất đoàn kết kéo dài, thì không những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội không hoàn thành, dân chủ không được phát huy mà còn làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác dân vận.
Hai là, Triển khai thực hiện một cách khoa học, thường xuyên, đồng bộ, thống nhất Quy chế công tác dân vận từ Trung ương đến cơ sở theo hệ thống chính trị.
Công tác dân vận là một khoa học - khoa học về con người; một nghệ thuật - nghệ thuật tiếp cận và vận động con người. Vì thế, phải dày công tìm tòi, suy nghĩ để phân tích chính xác tình hình, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn sinh động để vận động nhân dân có hiệu quả. “Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang” đều phải tham gia công tác dân vận. Cần tăng cường sự phối hợp, cam kết giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị. Coi trọng công tác dân vận của chính quyền, thực hiện nghiêm túc Điều 27 trong Quy chế về phân công đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân phụ trách công tác dân vận của chính quyền và Chỉ thị 18/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác dân vận của chính quyền. Gắn nội dung công tác dân vận với nội dung các Nghị quyết của Đảng, với cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, cải cách hành chính và những nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể quần chúng, để các tổ chức đó thực sự thu hút sự tham gia hoạt động tự giác của các thành viên qua các phong trào thi đua. Huyện, tỉnh phải tăng cường, bổ sung cán bộ cho nơi thiếu cán bộ cơ sở. Thành lập các tổ, đội công tác đưa cán bộ các ngành, chiến sĩ lực lượng vũ trang xuống tận các buôn/ làng trọng điểm để phát động quần chúng tạo sự đồng thuận xã hội - sức mạnh của cả cộng đồng làm nên thắng lợi. Đây cũng là một bài học kinh nghiệm trong tổ chức triển khai một chủ trương lớn của Đảng.
Ba là, Công tác dân vận phải biết dựa vào dân.
Công tác dân vận lấy việc giác ngộ ý thức địa vị “là chủ” và trách nhiệm “làm chủ” của dân làm nội dung căn bản. Làm cho dân thấy rõ họ vừa là đối tượng của dân vận, vừa là chủ thể quyền lực, là động lực và mục đích của dân vận. Từ đó mới khơi dậy được sức mạnh của toàn dân. Dân là cơ sở chính trị- xã hội của công tác dân vận. Trong công tác dân vận, cần thực hiện phương châm “dân vận dân”. Một số cách dân vận thời gian qua đã phát huy tác dụng rất tốt như: Dùng người từng lầm lỡ theo bọn phản động Fulro, những đối tượng vượt biên trái phép đã nhận rõ sai trái trở về, đưa vào tham gia công tác dân vận; mô hình kết nghĩa giữa các hộ, đoàn thể, thôn/ buôn đồng bào Kinh với đồng bào dân tộc thiểu số; phát huy vai trò của già làng, người có uy tín trong cộng đồng làm dân vận... Đây là kinh nghiệm quý trong công tác dân vận, đồng thời là bài học để cấp ủy Đảng đưa ra những chủ trương vì lợi ích của dân, hợp lòng dân từ việc biết lắng nghe ý nguyện và tôn trọng nhân dân.
Bốn là, Bảo đảm mối quan hệ giữa xây và chống trong công tác dân vận.
Cần lấy những thành tựu phát triển kinh tế- xã hội, những gương người tốt, việc tốt, những cá nhân điển hình làm kinh tế giỏi, tích cực hoạt động xã hội ở cơ sở làm nội dung vận động, bác bỏ luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch, giáo dục nâng cao tinh thần đoàn kết, yêu nước của đồng bào dân tộc, vận động đồng bào "không tin, không nghe, không làm theo lời xúi giục của kẻ xấu". Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện vi phạm quyền làm chủ của nhân dân và các biểu hiện lợi dụng dân chủ, nhân quyền để gây rối, kích động làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Kinh nghiệm được phổ biến trong Hội nghị công tác dân vận Tây Nguyên do Ban Chỉ đạo Tây Nguyên tổ chức là: cam kết với nội dung "6 không, 5 bảo đảm, 4 cùng, 3 thi đua" trở thành một cuộc vận động trong hệ thống dân vận ở mỗi cấp (6 không: Không để nhân dân không có đất sản xuất; Không để nhân dân đói, nhà dột; Không để nhân dân di cư tự do, phá rừng; Không để bọn xấu lợi dụng tôn giáo truyền đạo trái phép; Không để biểu tình bạo loạn, vượt biên trái phép; Không để thôn/ buôn không có đảng viên và các đoàn thể nhân dân. 5 đảm bảo: Sự gắn bó giữa Đảng với dân và đoàn kết nhân dân các dân tộc; Xây dựng vững chắc đội ngũ cốt cán trong các tầng lớp nhân dân; Củng cố tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân; Nắm tâm tư và nguyện vọng của nhân dân; Ổn định chính trị- xã hội và an ninh quốc phòng. 4 cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng học và nói tiếng dân tộc. 3 thi đua: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, làm giàu hợp pháp; Xây dựng đời sống văn hóa cộng đồng ở thôn, buôn, làng; Xây dựng địa bàn vững mạnh về trật tự an toàn xã hội). Đêm hội thanh niên Tây Nguyên đoàn kết và phát triển, phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của thanh niên tham gia xóa đói giảm nghèo, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; Hội nghị già làng tiêu biểu Tây Nguyên, nêu cao vai trò gương mẫu của già làng trong thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương, với phương châm "Già làng nói, dân làng nghe, già làng hô, dân làng hưởng ứng, già làng làm, dân làng làm theo" là những nhân tố góp phần bảo đảm mối quan hệ giữa xây và chống trong công tác dân vận.
Năm là, Đảm bảo mối quan hệ giữa công tác dân vận với thực hành dân chủ và thực hiện kỷ cương, luật pháp.
Dân chủ chỉ được thực hiện một cách đầy đủ trên nền tảng một xã hội có kỷ cương, có luật pháp; kỷ cương, luật pháp chỉ được thực hiện đầy đủ trong một chế độ dân chủ được mở rộng. Chỉ như vậy, dân chủ mới đích thực, quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm công dân mới được thực hiện một cách đầy đủ. Đồng thời, việc thực hiện dân chủ cũng phụ thuộc vào trình độ dân trí, dân sinh, đặc điểm của từng vùng, từng dân tộc, từng loại hình và trình độ năng lực lãnh đạo của cấp ủy Đảng các cấp. Từ đó, việc tổ chức thực hiện công tác vận động đồng bào cũng phải được xây dựng trên đặc điểm đó để có giải pháp phù hợp cho từng vùng, từng miền, từng dân tộc và các loại hình khác nhau. Đặc biệt là vận dụng hài hòa quan hệ giữa luật pháp và luật tục, không thể thực hiện một cách rập khuôn máy móc.
Sáu là, Thực hiện phương châm kiên trì vận động, thuyết phục làm chính.
Việc thực hiện công tác dân vận ở địa bàn Tây Nguyên, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc tại chỗ là rất cần thiết nhưng không đơn giản, dễ dàng như các địa phương khác. Vì vậy, rất cần có sự chủ động, sáng tạo của cán bộ dân vận để hoạt động này thực sự đạt hiệu quả cao.
Cần gắn công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho quần chúng với tập trung chỉ đạo thực hiện tốt, có hiệu quả các chính sách dân tộc, tôn giáo bằng những việc làm cụ thể, thiết thực như: giải quyết đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, điện thắp sáng, việc làm, thu nhập. Khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của dân, tin và dựa vào dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ sở theo phương châm hành động “gần dân, hiểu dân, nghe dân nói, nói cho dân hiểu và làm cho dân tin”, giúp cho dân vươn lên no ấm tiến bộ; "Tỉnh bám xã, huyện bám thôn, xã bám hộ gia đình để vận động"; lấy thôn/ buôn làm địa bàn hoạt động, lấy hộ gia đình làm đối tượng vận động. Phương pháp vận động phải bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, tiến hành bằng nhiều lực lượng, tùy đối tượng mà vận động chung hay tuyên truyền vận động cá biệt theo hướng "Kiên trì, thận trọng, chắc chắn"; kiềm chế trong những tình huống phức tạp, nảy sinh khi thực hiện nhiệm vụ, lấy người thực, việc thực để giáo dục; nêu bật những thành tựu, đồng thời chỉ rõ những thiếu sót tồn tại, không nói chung chung. Trên cơ sở đó làm chuyển biến nhận thức đối với đồng bào, đặc biệt là tầng lớp trí thức, giới trẻ, phụ nữ; loại trừ những tư tưởng ly khai tự trị, chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch ra khỏi cộng đồng.
Bảy là, Cán bộ dân vận hoạt động trên cơ sở nắm vững quy trình thực hiện dân chủ trực tiếp.
Công tác dân vận trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nên thực hiện theo phương châm: "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Đây là quy trình thực hiện dân chủ được diễn đạt cô đọng, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ với sự sắp xếp hợp lý. Mọi công việc (trong sự nghiệp xây dựng chính quyền, phát triển kinh tế, văn hoá, giải quyết các vấn đề xã hội...) của dân đã được tiến hành theo quy trình "biết- bàn- làm- kiểm tra" trong Pháp lệnh Dân chủ ở cơ sở. Thực ra, quy trình này là sự khoa học hóa, pháp quy hóa công tác dân vận mà Bác Hồ đã dạy cho cán bộ dân vận, thể hiện rõ trong bài báo Dân vận (15/10/1949) của Người. Cán bộ dân vận nắm vững và thực hiện theo quy trình này thường đạt kết quả rất tốt.
Để dân được biết, cán bộ dân vận phải hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của dân, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích và trách nhiệm, quyền hạn và bổn phận. Cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết cho dân. Cần phân biệt những gì dân cần được biết ngay, biết trước; những gì dân chưa cần biết ngay để cung cấp đúng mức, kịp thời.
Để khuyến khích dân bàn, người làm công tác dân vận phải biết khơi dậy và lắng nghe ý kiến của dân. “Bàn” bao gồm bàn để tham gia, bàn để quyết định, bàn để thực hiện. Để tránh hình thức, cần chú ý tạo điều kiện để dân được bàn ngay từ đầu, khi "quyết định" đang còn ở giai đoạn dự thảo.
Để phát huy tính sáng tạo trong khâu dân làm phải có cơ chế đúng và thực hiện bằng luật pháp. Nhiệm vụ của cán bộ dân vận là động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân, phải biết đem tài dân, sức dân, của dân mà làm lợi cho dân. Tức là phải làm sao tổ chức những phong trào thi đua, những hoạt động thiết thực để "dân làm" đạt hiệu quả cao, phục vụ cho lợi ích của chính người dân.
Dân kiểm tra cán bộ, cán bộ kiểm tra dân, dân và cán bộ cùng kiểm tra mọi hoạt động làm căn cứ để đánh giá hiệu quả công việc, biết rõ thành tích, sai phạm thuộc về ai. Thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ, duy trì và đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm, đẩy mạnh mô hình "dân vận khéo" ở khắp các loại hình cơ sở.
Tám là, Chú trọng xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận.
Chất lượng công tác dân vận phụ thuộc rất lớn vào chất lượng cán bộ làm công tác dân vận. Cán bộ dân vận “phải thật thà nhúng tay vào việc”, không được “nói một đằng, làm một nẻo”, là những người “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Vì vậy, cần hết sức quan tâm đến công tác xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận, theo đó:
Đầu tư khâu tìm chọn những người có phẩm chất, năng lực, tận tụy với nhiệm vụ, có năng khiếu về vận động, thuyết phục quần chúng tham gia làm công tác dân vận. Phát huy, động viên già làng, trưởng bản, người có uy tín trong dòng tộc, chức sắc tôn giáo tham gia làm công tác dân vận.
Chú trọng công tác phát triển đảng viên, đoàn viên; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Chọn một số con em gia đình cách mạng, con em cán bộ, con em là người dân tộc thiểu số, có triển vọng cử đi đào tạo tập trung tại các trường có chất lượng, đào tạo chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ dân vận, quản lí nhà nước và lí luận chính trị để tạo nguồn cán bộ dân vận tương lai. Tổ chức các lớp chuyên đề, các hoạt động tham quan, khảo sát, trao đổi kinh nghiệm, tạo điều kiện cho cán bộ tiếp xúc với những mô hình, điển hình, những thông tin mới, nắm bắt kịp thời những nhiệm vụ trọng tâm của từng thời kì để tăng cường năng lực thực tiễn cho đội ngũ cán bộ dân vận. Phải chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận ở cơ sở, coi cơ sở là một trận địa cực kì quan trọng - trận địa lòng dân cần giữ vững; có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất cho đội ngũ cán bộ cơ sở để tạo nguồn cán bộ các cấp.
Trong công tác bố trí, sử dụng cán bộ, cần cố gắng đảm bảo về tiêu chuẩn, bố trí đúng người, đúng việc, đúng sở trường đảm bảo tính liên tục và phát triển, bổ nhiệm đúng lúc, giao việc đúng tầm, khuyến khích cán bộ vươn lên đảm nhiệm công việc. Nâng dần tỉ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số. Vận dụng linh hoạt chính sách sử dụng cán bộ đối với vùng miền núi, thay vì tiêu chuẩn ngoại ngữ đối với cán bộ miền xuôi thì cán bộ dân vận ở Tây Nguyên nhất thiết phải biết tiếng đồng bào. Việc bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ kết hợp chặt chẽ với việc luân chuyển, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ. Thực tế ở Tây Nguyên có tới trên 50% cán bộ không đạt chuẩn, nhưng do điều kiện đặc thù của khu vực này nên không thể thay thế đồng loạt mà phải có tính kế thừa, phải tiếp tục sử dụng những cán bộ cơ sở có kinh nghiệm trong công tác dân vận.
Phải coi trọng công tác đánh giá cán bộ, thực hiện nghiêm công tác nhận xét, đánh giá cán bộ dân vận, phát hiện kịp thời những cán bộ dân vận giỏi, có nhiều đóng góp để khen thưởng thích đáng. Có chế độ ưu đãi về vật chất và tinh thần cho cán bộ làm công tác dân vận.
Thực tế ngày càng kiểm nghiệm sự đúng đắn của nguyên lý "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", "dân là gốc cách mạng". Dựa vào dân, động viên và phát huy sức mạnh của nhân dân, đó là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam và cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Công cuộc đổi mới ngày nay đòi hỏi phải phát huy nội lực là chính, đồng thời hợp tác quốc tế có hiệu quả để tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nguồn nội lực quan trọng nhất là con người, là nhân dân với tất cả sức mạnh vật chất và ý chí, trí tuệ của mình. Nâng cao chất lượng công tác dân vận nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân là tạo ra nguồn nội lực dồi dào ấy./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Dân tộc điện tử ngày 23.4.2021
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Bài viết nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội đối với hoạt động báo chí hiện nay, tập trung vào sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, phân phối tin tức và cấu trúc nội dung báo chí. Truyền thông xã hội đã trở thành một nguồn tin phong phú, đa chiều và nhanh chóng, làm thay đổi đáng kể cách thức thu thập và truyền tải thông tin. Tuy nhiên, tính xác thực của nguồn tin mạng xã hội vẫn là một thách thức, đòi hỏi báo chí phải chú trọng vào việc kiểm chứng và phản hồi thông tin một cách chính xác. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất báo chí cần phát triển nội dung chất lượng cao, tăng cường kỹ năng công nghệ số của phóng viên và xây dựng các nền tảng số riêng để giảm sự phụ thuộc vào truyền thông xã hội, đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy trong kỷ nguyên số.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận