Nâng cao hiệu quả công tác dân vận chính quyền, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới
1. Thực trạng công tác dân vận chính quyền
Qua 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nhất là những năm gần đây, công tác dân vận chính quyền có nhiều đổi mới theo hướng thiết thực, hiệu quả hơn, góp phần đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong phát triển đất nước và trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Định hướng xây dựng nền hành chính “hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, năng động, hiệu lực, hiệu quả, lấy kết quả phục vụ và sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp làm tiêu chí đánh giá”(1) là một trong những điểm nhấn quan trọng trong công tác dân vận chính quyền.
Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong nhiều năm qua, cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta luôn quan tâm, ban hành nhiều nghị quyết, đề ra nhiều chủ trương về công tác dân vận, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị về công tác dân vận, trong đó, công tác dân vận chính quyền có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước ở Trung ương và chính quyền địa phương các cấp, góp phần giữ gìn, thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân”(2). Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03.6.2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” nhấn mạnh: động lực để thúc đẩy người dân tham gia chính là quan tâm đến lợi ích hợp pháp, chính đáng cũng như phát huy quyền làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo, nguồn lực trong nhân dân. Đại hội XII của Đảng yêu cầu: “Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân”(3); quan tâm giải quyết những vấn đề thiết thực, những bức xúc trong nhân dân; tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Tiếp theo Quyết định số 290-QĐ/TW ngày 25.02.2010 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, ngày 14.7.2015, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Kết luận số 114-KL/TW ngày 14.7.2015 “Về nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan nhà nước các cấp”; trên cơ sở đó, ngày 16.5.2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg “Về tăng cường và đổi mới công tác dân vận trong cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp trong tình hình mới”. Với trách nhiệm quản lý nhà nước trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, các cơ quan nhà nước ở Trung ương và chính quyền địa phương các cấp đóng vai trò quan trọng trong việc thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật và quan trọng hơn là tổ chức thực hiện và đưa chính sách, pháp luật vào cuộc sống.
Từ Chương trình phối hợp công tác dân vận giữa Ban Cán sự Đảng Chính phủ và Ban Dân vận Trung ương năm 2018, “Năm dân vận chính quyền” đã được đẩy mạnh với 06 nội dung trọng tâm:
Một là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước, công tác dân vận của cơ quan hành chính nhà nước các cấp; tiếp tục thể chế hóa các chủ trương của Đảng về công tác dân vận thành chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn, đáp ứng quyền, lợi ích, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân; nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện nhiệm vụ gắn với công tác dân vận và phương châm hành động “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả”; bảo đảm mọi chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện hiệu quả.
Hai là, tập trung thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội; chăm lo cho các đối tượng chính sách, đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, khu vực đặc biệt khó khăn.
Ba là, đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trực tuyến; tăng cường công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho nhân dân tiếp cận, giám sát hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước các cấp và cán bộ, công chức, viên chức; đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo”; thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Bốn là, nâng cao đạo đức công vụ, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương, ý thức phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là bộ phận thường xuyên tiếp xúc với nhân dân. Tăng cường đánh giá sự hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo quy định. Thường xuyên kiểm tra, thanh tra công vụ, xử lý nghiêm những cán bộ, công chức, viên chức có hành vi cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà cho nhân dân.
Năm là, tổ chức tốt công tác tiếp công dân, phát huy vai trò của người đứng đầu các cấp chính quyền trong việc đối thoại với nhân dân, lắng nghe và giải quyết kịp thời những kiến nghị, bức xúc, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; tập trung rà soát, giải quyết dứt điểm đơn thư khiếu nại, tố cáo, nhất là các vụ việc phức tạp, kéo dài, không để phát sinh “điểm nóng”.
Sáu là, phối hợp, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng chính quyền vững mạnh. Đặc biệt, năm 2019, chính quyền các cấp đã tập trung vào công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, nhất là những vụ việc khiếu kiện phức tạp, đông người, kéo dài.
Trên cơ sở đó, Chính phủ và chính quyền các cấp đã tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong quan hệ với nhân dân. Nhờ vậy, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua đã cơ bản đạt và vượt kế hoạch, nhất là các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, thu nhập của người dân, xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, an sinh xã hội...; quốc phòng, an ninh được giữ vững, đời sống người dân tiếp tục được nâng cao, đời sống của người có công, người có hoàn cảnh khó khăn, đồng bào vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Đồng thời, Nhà nước tăng cường sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhiều đạo luật liên quan đến những vấn đề thiết thân trong cuộc sống của người dân, bức xúc xã hội được xây dựng, ban hành; triển khai các chương trình, dự án quan trọng của quốc gia; các chính sách xã hội quan trọng, như ban hành Bộ luật lao động mới, cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu...
Công tác đối thoại, tiếp dân, giải quyết đơn, thư, khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là giải quyết các vụ việc phức tạp, kéo dài được các cơ quan nhà nước luôn xác định là nhiệm vụ trọng tâm gắn với việc tổ chức thi hành Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Tiếp công dân, Luật Tiếp cận thông tin. Các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương công khai địa chỉ, số điện thoại đường dây nóng, lập hòm thư để tiếp nhận ý kiến của công dân, doanh nghiệp, đồng thời bố trí thời gian, xây dựng lịch cụ thể để người đứng đầu các cơ quan, đơn vị tiếp công dân.
Thực hiện Quy định số 11-QĐi/TW ngày 18.2.2019 của Bộ Chính trị “Về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân”, Thủ tướng Chính phủ, lãnh đạo một số bộ, ngành, chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp trực tiếp đối thoại với người lao động, nông dân, thanh niên và doanh nghiệp để nắm bắt kịp thời những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, những khó khăn, bức xúc của nhân dân, doanh nghiệp và xã hội, những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, từ đó nêu cao trách nhiệm của cán bộ, công chức thực thi công vụ, kịp thời điều chỉnh, chấn chỉnh biện pháp quản lý, tạo môi trường thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp.
Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt các quyết định, kết luận giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có hiệu lực pháp luật; chủ động xây dựng và triển khai kế hoạch thanh tra, kiểm tra những lĩnh vực có nhiều khiếu kiện; tăng cường thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; chú trọng việc chủ động thông tin, truyền thông về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân để dư luận hiểu đúng bản chất sự việc, tạo đồng thuận trong xã hội. Sự phối hợp tích cực, thường xuyên giữa các cơ quan hữu quan trong công tác thống kê, phân loại các vụ việc khiếu nại, tố cáo, thẩm quyền giải quyết và có kế hoạch giải quyết từng vụ việc cụ thể đã góp phần mang lại nhiều kết quả tích cực trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Qua rà soát, từ đầu năm 2019, cả nước còn 35 vụ việc phức tạp do Thường trực Chính phủ trực tiếp chỉ đạo xử lý và hơn 600 vụ việc giao chính quyền địa phương chịu trách nhiệm. Đến tháng 8.2019, Tổ công tác của Thường trực Chính phủ đã chỉ đạo giải quyết được 18/35 vụ việc; có 50/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tích cực thành lập tổ công tác kiểm tra, rà soát các vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, kéo dài(4).
Công tác phối hợp giữa chính quyền các cấp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; tổ chức hoạt động của các mô hình tự quản trong nhân dân (ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng, tổ hòa giải...); tham gia giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng chính quyền vững mạnh, tiếp tục được quan tâm thực hiện đồng bộ ở các cấp chính quyền. Phong trào “Dân vận khéo” tiếp tục lan tỏa sâu rộng trong các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức; đã xuất hiện nhiều mô hình, điển hình tiêu biểu, như: “Ngày thứ sáu nghe dân nói” tại Đồng Tháp; phong trào “Xứ đạo bình yên - Gia đình văn hóa” tại Nam Định, Thanh Hóa, “Xây dựng khu, cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp an toàn về an ninh trật tự”, “Xây dựng xã không có tội phạm và tệ nạn ma túy”... tại nhiều địa phương là những điểm sáng trong phong trào thi đua “Dân vận khéo”, góp phần xây dựng mối quan hệ tích cực giữa chính quyền và nhân dân.
Từ năm 2020 đến nay, các cơ quan nhà nước ở Trung ương và chính quyền địa phương các cấp đã bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong phòng, chống dịch Covid-19 để triển khai thực hiện và vận động nhân dân cả nước phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng chung tay, chung sức ngăn chặn, đẩy lùi dịch bệnh.
Công tác dân vận chính quyền trong bối cảnh dịch Covid-19 cho thấy, cùng với vắcxin y tế, đã huy động được từ nhân dân nguồn lực vật chất to lớn (tiền, vật tư trang thiết bị, lương thực, thực phẩm...) và nguồn lực tinh thần quý giá (những tấm gương tập thể và cá nhân “người tốt, việc tốt”, những nghĩa cử cao đẹp của đồng bào ta ở trong nước và nước ngoài chung sức, chung lòng phòng, chống dịch Covid-19). Những kinh nghiệm rút ra từ thành công trong công tác dân vận nói chung, công tác dân vận chính quyền nói riêng và tinh thần đoàn kết, nghĩa cử cao đẹp của đồng bào ta trong bối cảnh muôn vàn khó khăn do dịch Covid-19 thêm một lần nữa khẳng định vai trò to lớn của công tác dân vận.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác dân vận chính quyền còn có những hạn chế. Còn không ít cán bộ, công chức chưa nhận thức đầy đủ vai trò quan trọng của công tác dân vận, xem nhẹ công tác dân vận, chưa coi trọng việc tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tạo sự đồng thuận của người dân trong quá trình thực thi công vụ. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tổ chức thực thi chính sách, pháp luật trên một số lĩnh vực của chính quyền các cấp còn hạn chế, nhất là trong lĩnh vực quản lý đất đai, môi trường, đầu tư xây dựng, phát triển đô thị, quan hệ lao động... Tình trạng “lợi ích nhóm”, nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ công vẫn còn gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp.
Ở nhiều địa phương, công tác giải quyết đơn, thư, khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện chưa có nhiều chuyển biến, dễ bị các phần tử xấu, thế lực thù địch, phản động lợi dụng để xuyên tạc, kích động tụ tập đông người, gây bất ổn xã hội, ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Đạo đức công vụ, ý thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chính quyền còn hạn chế; vẫn còn tình trạng thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm với nhân dân; chưa thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Việc lấy ý kiến nhân dân khi xây dựng, triển khai các đề án, dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội còn hình thức, có nơi còn áp đặt, không công khai, minh bạch dẫn đến bức xúc, khiếu kiện kéo dài. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội để thực hiện công tác dân vận ở một số địa phương chưa chặt chẽ; chưa phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, tham gia quản lý nhà nước.
2. Nhiệm vụ và giải pháp
Đại hội XIII của Đảng xác định rõ các yêu cầu, nhiệm vụ: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”(5); “xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”(6).
Để thực hiện tốt nhiệm vụ, mục tiêu, trong thời gian tới, cần đẩy mạnh công tác vận động nhân dân, nhằm tạo sự đồng thuận, động viên, phát huy vai trò của người dân tham gia tích cực vào quá trình phát triển đất nước. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, trình độ dân trí ngày càng cao, ý thức và vai trò làm chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng, các phương tiện thông tin, mạng xã hội ngày càng đa dạng, đa chiều; sự chống phá của các thế lực thù địch, phần tử xấu ngày càng tinh vi, quyết liệt... đòi hỏi công tác dân vận của các cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp phải không ngừng đổi mới, đi vào thực chất, nâng cao hiệu quả và do vậy, cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
Một là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, quán triệt sâu rộng các chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác dân vận, trọng tâm là Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25.7.2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Quyết định số 290-QĐ/TW ngày 25.2.2010 của Bộ Chính trị, Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12.12.2013 của Bộ Chính trị, Kết luận số 114-KL/TW ngày 14.7.2015 của Ban Bí thư, Kết luận số 120-KL/TW ngày 07.01.2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Chỉ thị số 16-CT/TTg ngày 16-5-2016 của Thủ tướng Chính phủ, Kết luận số 03-KL/TW ngày 13.5.2016 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Quyết định số 290-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa X, Quyết định số 23-QĐ/TW ngày 30-7-2021 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị... nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và hành động của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là của cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp, người đứng đầu, đảng viên, cán bộ, công chức trong mối quan hệ với nhân dân.
Hai là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước gắn với việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống của nhân dân gắn với các mục tiêu phát triển bền vững; bố trí đủ nguồn lực để thực hiện các chính sách xã hội đã ban hành; thực hiện có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, các chính sách đối với người yếu thế, người thu nhập thấp, người nghèo đô thị...
Ba là, tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, bảo đảm nguyên tắc mọi chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; nâng cao hiệu quả của việc đánh giá tác động của chính sách, pháp luật, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; đổi mới nội dung, hình thức, quy trình lấy ý kiến nhân dân tham gia xây dựng chính sách, pháp luật liên quan trực tiếp đến cuộc sống của mình; lắng nghe, tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Bốn là, thúc đẩy mạnh mẽ công tác cải cách hành chính nhà nước, nâng cấp các dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 3, mức độ 4, liên thông từ Trung ương đến chính quyền các cấp và người dân; xây dựng Chính phủ, chính quyền điện tử gắn với cải cách chế độ công vụ, tiền lương. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ, xây dựng phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, phát huy vai trò nêu gương của người đứng đầu, thường xuyên đánh giá sự hài lòng của người dân đối với cơ quan hành chính các cấp, gắn với lấy phiếu tín nhiệm trong hoạt động của các cơ quan dân cử. Tăng cường thanh tra, kiểm tra thực thi công vụ, kiên quyết xử lý những cán bộ, công chức, viên chức quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, hách dịch, cửa quyền và năng lực, phẩm chất kém, vi phạm pháp luật.
Năm là, tập trung giải quyết kịp thời, đúng pháp luật ngay tại cơ sở những kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, nhất là những vấn đề bức xúc xã hội nổi cộm, các vụ việc phức tạp kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện tốt công tác tiếp dân, tăng cường đối thoại, giải quyết thực chất, dứt điểm các vụ việc phức tạp.
Sáu là, thường xuyên phối hợp giữa ban dân vận cấp ủy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội với các cấp chính quyền về công tác dân vận. Đưa công tác dân vận của chính quyền trở thành hoạt động thường xuyên, là yêu cầu bắt buộc đối với hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong thực thi công vụ. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh; coi trọng và thực hiện có hiệu quả công tác giám sát cán bộ, công chức, người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước trong thực thi công vụ.
Bảy là, khẩn trương nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội và Chính phủ về phương hướng, giải pháp tiếp tục thể chế hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” thành những chính sách, pháp luật cụ thể, bảo đảm mọi chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước phù hợp với lợi ích và nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Phát huy được vai trò tích cực, chủ động của nhân dân trong quá trình xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách liên quan đến quyền và lợi ích thiết thân của nhân dân.
Tám là, đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong các cơ quan hành chính nhà nước, nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu của cán bộ, đảng viên để vận động, khuyến khích các tầng lớp nhân dân phát huy mọi tiềm năng, trí tuệ cống hiến cho cộng đồng xã hội, cho đất nước; biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong hoạt động công vụ, cải cách hành chính, trong quan hệ với nhân dân, nhằm cổ vũ tinh thần phục vụ nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước thật sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong thời kỳ mới.
______________________________________
(1), (3) ĐCSVN (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, H., tr.309, 210.
(2) ĐCSVN (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H., tr.65.
(4) Thanh tra Chính phủ, Báo cáo kết quả thực hiện “Năm dân vận chính quyền 2019”.
(5), (6) ĐCSVN (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG, H., T.1, tr.191, 176.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý Luận Chính trị điện tử ngày 3.5.2022
Bài liên quan
- Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
- Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
- Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
- Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
- Tăng cường quản lý công chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh ở Đông Nam Bộ hiện nay
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng lối sống cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam hiện nay
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
5
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
-
6
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, với trọng tâm là số hóa, trí tuệ nhân tạ và phát triển bền vững, “lực lượng sản xuất mới” đang tái định hình con đường phát triển kinh tế của các quốc gia. Là một nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á, Việt Nam đã tận dụng lợi thế về lao động, các hiệp định thương mại tự do (như RCEP) và vị trí chiến lược để đẩy nhanh việc tiếp nhận sự dịch chuyển chuỗi cung ứng, trở thành một trung tâm trong khu vực về các lĩnh vực như sản xuất điện tử, dệt may. Trong sự nghiệp đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật về tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và đổi mới thể chế. Tuy nhiên quá trình phát triển của Việt Nam vẫn đối mặt với rất nhiều thách thức. Bài viết này sẽ phân tích tiến trình phát triển của Việt Nam dưới góc nhìn “lực lượng sản xuất chất lượng mới”, đồng thời đề xuất định hướng phát triển lực lượng sản xuất mới nhằm thúc thúc đẩy tăng trưởng, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam.
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội trên cơ sở kết quả nghiên cứu chọn mẫu với cỡ mẫu là 468 sinh viên thuộc 3 trường Đại học tại Hà Nội (Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Giao thông vận tải, Học viện Báo chí Tuyên truyền). Kết quả nghiên cứu cho thấy, sinh viên nữ vẫn thường xuyên đối mặt với định kiến giới trong các môi trường khác nhau, trong đó, định kiến giới trên môi trường mạng xã hội (MXH) là phổ biến nhất, tiếp đến là môi trường sống, môi trường học đường, truyền thông đại chúng. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc cần phải tiếp tục có giải pháp phù hợp dần xoá bỏ định kiến giới trong các môi trường xã hội, đặc biệt môi trường MXH.
Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Trên thực tế, việc thường xuyên duy tu, sửa chữa tài sản, đầu tư cơ sở vật chất mới tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) trong thời gian qua đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra, là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng và phát triển Học viện cũng như thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao. Các quy định về đầu tư, quản lý tài sản đã được quan tâm nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi để phù hợp với quy định chung của Nhà nước và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; các biện pháp cụ thể để tăng cường đầu tư, tu chỉnh tài sản cũng liên tục được bổ sung, hoàn thiện, hướng tới việc sử dụng tài sản đúng công năng, tiết kiệm, hiệu quả và minh bạch. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đầu tư cơ sở vật chất trong thời gian qua của Học viện cũng đã bộc lộ một số bất cập. Bài viết trình bày thực trạng kết quả đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện thời gian qua, nêu những vấn đề còn tồn tại và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác đầu tư cơ sở vật chất, phục vụ chiến lược phát triển Học viện trong giai đoạn mới.
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Bài viết phân tích sự cần thiết của việc xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại các thư viện. Cung cấp thông tin về hoạt động tình nguyện viên tại các thư viện trên thế giới và Việt Nam. Sự cần thiết xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Đồng thời, bài viết đưa ra một số giải pháp xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học trong công tác xử lý tài liệu.
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với những thách thức ngày càng nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường, chuyển đổi xanh đã trở thành xu thế phát triển tất yếu, được nhiều quốc gia lựa chọn nhằm hướng tới tăng trưởng, phát triển bền vững, bao trùm và bảo vệ môi trường sinh thái. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước xác định rõ phát triển xanh là một trong những định hướng chiến lược trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 và thể hiện cam kết mạnh mẽ qua việc tham gia các sáng kiến toàn cầu. Để thực hiện thành công chuyển đổi xanh, một trong các yếu tố then chốt là phải bảo đảm nguồn lực tài chính đủ, ổn định và hiệu quả. Tài chính không chỉ là điều kiện vật chất để triển khai các chương trình, dự án xanh, mà còn là công cụ định hướng hành vi kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực quản trị môi trường và thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh. Trong khi nhu cầu tài chính cho chuyển đổi xanh ngày càng gia tăng, khả năng huy động và sử dụng nguồn lực tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, đặt ra yêu cầu cần có những giải pháp nhằm tăng cường nguồn lực tài chính phục vụ mục tiêu phát triển xanh, bền vững trong thời gian tới.
Bình luận