Nhận diện mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội ở Việt Nam hiện nay
Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội - một trong những quan hệ lớn cần được nhận diện, xử lý tốt trong giai đoạn phát triển mới
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) lần đầu tiên xác định phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, gồm: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội XII của Đảng điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành quan hệ “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”. Cùng với đó, Đảng ta đã bổ sung mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường” thành mối quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”, chính thức coi đây là mối quan hệ lớn thứ chín trong những mối quan hệ lớn cần được nhận diện, nghiên cứu có hệ thống trên bình diện lý luận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, cơ chế tác động, mối quan hệ giữa Nhà nước với xã hội, giữa thị trường với xã hội hay quan hệ ba bên giữa ba chủ thể này ở Việt Nam lại khá phức tạp, là vấn đề khoa học mới mẻ, chưa được nghiên cứu chuyên sâu.
Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là mối quan hệ lớn, cơ bản, đòi hỏi phải giải quyết hài hòa trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết tốt mối quan hệ này cũng chính là góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh, bền vững; đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI. Nhận thức ngày càng rõ hơn về vị trí, vai trò và ý nghĩa của mối quan hệ này, Đảng ta nhấn mạnh đến tính cấp thiết của việc nhận diện, nhận thức lại cơ cấu, chức năng để xử lý hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong điều kiện mới. Hội nghị Trung ương 5 khóa XII yêu cầu: “Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng”(1).
Đánh giá chung về 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2030, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Về nhận thức lý luận, mục tiêu, đặc trưng, những phương hướng cơ bản và những quan hệ lớn mang tính quy luật trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc tiếp tục được bổ sung, cụ thể hóa, phát triển với những nhận thức quan trọng…; đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; hoàn thiện mô hình tổ chức của Nhà nước,… coi trọng kiểm soát quyền lực nhà nước; giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân”(2). Đồng thời, dự kiến bổ sung thêm mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là mối quan hệ thứ mười và lưu ý trong nhận thức và giải quyết các quan hệ lớn, cần chú trọng hơn đến bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữ vững độc lập, tự chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Nhận thức bước đầu về mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội
Trên thực tế, mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội ở Việt Nam hiện nay là mối quan hệ bất đối xứng, được quản lý, xây dựng, hoàn thiện nhằm góp phần phát triển nhanh, bền vững đất nước. Có quan điểm cho rằng, mối quan hệ ba bên này là mối quan hệ ba bên đồng đẳng, cân bằng, ngang bằng theo kiểu “chủ nghĩa bình quân” và sơ đồ hóa thành một tam giác cân. Quan niệm về mối quan hệ ba bên đều nhau như vậy có lẽ là không thực sự phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn. Cần thấy rằng, theo cách tiếp cận lý thuyết hệ thống tổng quát, lý thuyết cấu trúc - chức năng và lý thuyết vị thế - vai trò xã hội, mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là mối quan hệ ba bên bất đối xứng. Bởi vì, trong mối quan hệ này, Nhà nước có vị trí, vai trò của cả một hệ thống tổ chức nhà nước gồm các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương để thực hiện quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong khi đó, thị trường chủ yếu có vị trí, vai trò định hướng, quy định và điều tiết hành vi, hoạt động trao đổi, mua bán, giao dịch của các bên tham gia thị trường, trong đó “Nhà nước” dưới hình thức tổ chức là các cơ quan nhà nước và xã hội dưới hình thức là các công dân, “người dân” có thể đóng vai người mua, người tiêu dùng và cả người cung cấp những sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nhất định. Mối quan hệ ba bên bất đối xứng thể hiện ở chỗ, “xã hội” dưới hình thức biểu hiện cụ thể là “người dân” có vị trí, vai trò của người làm chủ đất nước, vừa có quyền lực vừa có trách nhiệm tham gia quản lý xã hội, quản lý phát triển xã hội, thực hiện các quy định của Hiến pháp, pháp luật và các chính sách của Nhà nước.
Mối quan hệ ba bên bất đối xứng này được định hướng phát triển dưới sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, chính sách, với sự lãnh đạo của Đảng, sự tham gia của người dân và sự ủng hộ của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp tư nhân. Điều đặc biệt quan trọng ở đây là, trong quản lý sự phát triển xã hội, Nhà nước cần vận dụng các quy luật của thị trường và thể chế hóa các quy định để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân và khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân phát triển; đồng thời, Nhà nước liên tục đổi mới và hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nâng cao năng lực quản lý nhà nước theo quy luật thị trường và xu thế dân chủ hóa, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững đất nước. Thị trường với các quy luật của nó có thể và cần phải được vận dụng một cách phù hợp để góp phần phân bổ hợp lý các nguồn lực, nâng cao được chất lượng và hiệu quả hành vi, hoạt động của các cá nhân, gia đình, nhóm, tổ chức và cả cơ quan quản lý nhà nước.
Mối quan hệ ba bên bất đối xứng này phụ thuộc rất nhiều vào vị trí, vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội và chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện kinh tế - xã hội trong nước và bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam với thế giới.
“Nhà nước” - vị trí, vai trò và giới hạn
Khái niệm “Nhà nước”: Theo nghĩa chung nhất, nhà nước là một thiết chế quyền lực đặc biệt được thiết lập trong phạm vi lãnh thổ nhất định để duy trì trật tự xã hội và thực thi chủ quyền quốc gia; có bộ máy cai trị và quản lý xã hội; có quyền ban hành luật pháp, thu thuế, xét xử. Nhà nước tồn tại, hoạt động dựa trên quyền lực nhà nước, bản chất của nó chính là quyền lực chính trị được biểu hiện dưới hình thức quyền lực công. Nguồn gốc của quyền lực nhà nước là do dân ủy quyền. Tuy nhiên, nhân dân không ủy quyền toàn bộ quyền lực của mình cho nhà nước, mà chỉ ủy quyền cho nhà nước những việc mà nhân dân không thể tự mình làm được, giữ lại cho mình những quyền có thể làm tốt hơn nhà nước để tự quản cuộc sống và thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài xã hội sau khi đã ủy quyền.
Ở Việt Nam hiện nay, theo nghĩa rộng, Nhà nước là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Theo nghĩa hẹp, Nhà nước là hệ thống các cơ quan chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương các cấp thực hiện quyền hành pháp. Theo nghĩa hẹp này, các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương có khả năng cụ thể hóa các đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong quản lý sự phát triển xã hội.
Tuy nhiên, ở đây, cần phải “bóc tách” và nhận diện rõ hơn các phương diện khác nhau của Nhà nước: 1- Là chủ thể quản lý có quyền ban hành luật pháp, thể chế, chính sách và sử dụng các công cụ, nguồn lực để can thiệp vào thị trường và xã hội; 2- Là chủ thể trên thị trường thực hiện các hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước, phải bình đẳng trước pháp luật, cạnh tranh bình đẳng trên thị trường; 3- Là nhà đầu tư công, nguồn lực nhà nước được đầu tư, phân bổ không chỉ theo chiến lược, kế hoạch, quy hoạch mà còn phải theo cơ chế thị trường để dẫn dắt đầu tư tư nhân, tối đa hóa hiệu quả, nhất là đầu tư phát triển các dịch vụ công ích, dịch vụ sự nghiệp công; 4- Là đối tác của doanh nghiệp trong các hợp đồng đối tác công tư, các đại diện của nhà nước phải có pháp nhân công đủ thẩm quyền để đàm phán, ký kết và đặt mình bình đẳng với doanh nghiệp, nếu sai phạm hợp đồng đều phải chấp nhận tranh tụng và chấp hành phán quyết công bằng của tòa án; 5- Là “hộ tiêu dùng” lớn nhất, mua sắm của Chính phủ cũng phải vận dụng các nguyên tắc cạnh tranh của thị trường, bảo đảm quyền tiếp cận của tư nhân, các tổ chức xã hội đối với các gói đấu thầu mua sắm công, các đơn đặt hàng cung ứng dịch vụ công; 6- Là trọng tài phân xử các tranh chấp trên thị trường và xã hội, cơ quan tư pháp phải thật sự độc lập, công tâm, minh bạch, đề cao công lý.
Vị trí và vai trò của Nhà nước trong mối quan hệ ba bên: Xuất phát từ nội hàm khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, có thể thấy, Nhà nước luôn đứng ở vị trí tầm cao để thực hiện quyền quản lý nhà nước đối với sự phát triển của đất nước, trong đó có sự tham gia của “thị trường” và “xã hội” và nhiều thành phần khác. Nhà nước có vị trí và vai trò thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất đối với thị trường, xã hội và mối quan hệ giữa thị trường và xã hội bảo đảm đất nước phát triển nhanh, bền vững. Trong mối quan hệ ba bên này, cả thị trường và xã hội đều không thực hiện quyền lực nhà nước và có vị trí, vai trò khác hẳn và do vậy, khó có thể ngang bằng, cân bằng khi so sánh với Nhà nước.
Giới hạn và “khiếm khuyết” của nhà nước: 1- Thể chế, chính sách thiên vị vẫn thường xảy ra khi nhà nước chịu tác động bởi “nhóm trục lợi” hướng lái chính sách để giành lợi ích cho nhóm này mà hy sinh lợi ích của nhóm khác; 2- Phân bổ nguồn lực vụ lợi vẫn xảy ra đối với những nhà nước không thật sự tôn trọng quy luật của kinh tế thị trường trong phân bổ nguồn lực, sử dụng thô bạo quyền lực nhà nước khi phân bổ nguồn lực; 3- Đặc quyền, đặc lợi và tham nhũng là khuyết tật bẩm sinh của mọi nhà nước, nhưng nhìn chung, các nhà nước sở hữu và nắm quá nhiều quyền hành phân bổ nguồn lực thì tình trạng đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng sẽ nghiêm trọng hơn; 4 - Tính khó lường phản ứng của thị trường. Thông tin về tình hình thị trường, tương tác trên thị trường và diễn biến thị trường rất khó lường để Nhà nước có thể ra quyết định được kịp thời và sát hợp; 5- Nhà nước khó thỏa mãn nhu cầu xã hội rất đa dạng, cụ thể của các cộng đồng xã hội vi mô. Do giới hạn thông tin và nguồn lực nên Nhà nước chỉ tập trung cho những nhu cầu cơ bản, thiết yếu, còn không ít nhu cầu đa dạng, cụ thể, trực tiếp, thậm chí là “sát sườn” của người dân lại dễ bị “bỏ sót”, nhất là với các tầng lớp yếu thế.
“Thị trường” - vị trí và vai trò; một số đặc điểm, biến đổi mới và “khuyết tật”
Khái niệm “thị trường”: Theo nghĩa chung nhất, thị trường là nơi diễn ra quan hệ trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ. Bản thân khái niệm “thị trường” (Market) đã trải qua một quá trình nhận thức lâu dài từ nhận thức trực quan, sinh động đến tư duy trừu tượng và trở lại vận dụng trong thực tiễn quản lý sự phát triển xã hội. Một cách trực quan, thị trường như một cái chợ, một cửa hàng, một siêu thị, là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Một cách trừu tượng, thị trường là hệ thống các thể chế, cơ chế, cấu trúc, quá trình, quan hệ xã hội, mà thông qua đó, các bên liên quan tham gia, tiến hành hoạt động trao đổi, mua bán và giao dịch.
Cơ chế thị trường: là quá trình tương tác giữa các chủ thể kinh tế để hình thành giá cả, phân bổ nguồn lực, xác định khối lượng và cơ cấu sản xuất. Cơ chế thị trường là cách tự phân bổ nguồn lực một cách tối ưu, với giá là trục xoay của thị trường phát tín hiệu; trên cơ sở đó, nhà sản xuất đưa ra quyết định đầu tư, sản xuất, kinh doanh.
Các quy luật của thị trường: Với nghĩa là hệ thống các thể chế, thị trường là hệ thống các quy luật có khả năng định hướng, điều chỉnh hành vi, hoạt động của các bên tham gia thị trường. Quy luật thị trường là mối quan hệ phổ biến nảy sinh và thể hiện một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Các quy luật này quy định, chi phối hành vi, hoạt động của người mua và người bán, buộc những người này phải tuân thủ nếu không sẽ bị loại khỏi thị trường hoặc bị thị trường trừng phạt một cách phù hợp. Cần nhận thức rõ hơn một số quy luật cơ bản của thị trường là quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật giá trị thặng dư, quy luật cạnh tranh và cho dù dưới bất kỳ hình thức biểu hiện nào thì thị trường, với các quy luật tự nhiên của nó, luôn có khả năng định hướng, quy định và điều chỉnh hành vi, hoạt động của người mua và người bán tham gia thị trường để trao đổi, mua bán và giao dịch đối với các hàng hóa, dịch vụ nhất định.
Đặc điểm và những biến đổi mới: Các loại thị trường hiện đại đều có chung một số đặc điểm và những biến đổi mới có thể làm thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá và ứng phó đối với thị trường. Thứ nhất, thị trường hiện đại lấy đồng tiền làm vật trung gian để định giá và trao đổi, theo đó bên bán cung cấp hàng hóa, dịch vụ và nhận lại số tiền theo giá trị trao đổi từ bên mua. Thứ hai, trong thị trường hiện đại, nhiều loại hàng hóa, dịch vụ mới xuất hiện và chiếm vị trí trung tâm thúc đẩy phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Đó là sức lao động trở thành hàng hóa và thị trường lao động, việc làm trở thành một loại thị trường có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh và các hoạt động giáo dục, đào tạo của xã hội. Đồng thời, đồng tiền cũng trở thành một loại hàng hóa dưới hình thức “tư bản tài chính”, “vốn tài chính” và gắn liền với nó là các dịch vụ tài chính, ngân hàng và thị trường vốn, thị trường tài chính, tín dụng xuất hiện và phát triển rất mạnh trong xã hội hiện đại. Thứ ba, với sự xuất hiện các tiến bộ khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ truyền thông hiện đại, như máy tính nối mạng, Internet, điện thoại thông minh… dẫn tới nhiều hình thức giao dịch mới cũng xuất hiện trên thị trường và tương ứng, có nhiều loại thị trường giao dịch mới xuất hiện và chi phối hoạt động của mọi thành viên trong xã hội, bao gồm cả các cơ quan nhà nước và người dân. Ví dụ, trong xã hội hiện nay đã xuất hiện và vận hành “chính phủ điện tử”; trong đó, một phần các dịch vụ công được thực hiện thông qua hệ thống các máy móc thiết bị điện tử nối mạng làm tăng hiệu quả quản lý, chất lượng phục vụ và sự hài lòng đối với người sử dụng và các bên liên quan. Thứ tư, bất kỳ một sự biến đổi nào của thị trường đều ảnh hưởng nhiều chiều đến toàn bộ hệ thống các thị trường và ảnh hưởng lan tỏa đến sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Do vậy, điều quan trọng và cần thiết đối với lãnh đạo, quản lý xã hội là phải kịp thời nắm bắt những biến đổi của thị trường để phát huy những ảnh hưởng tích cực thúc đẩy phát triển xã hội và kiểm soát những biến đổi tiêu cực cản trở sự phát triển xã hội. Thứ năm, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, chi phối hành vi kinh doanh của các chủ thể trên thị trường không chỉ là lợi nhuận mà cả giá trị xã hội, các lợi ích công cộng được tiêu chuẩn hóa trong cam kết đầu tư (như tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn nhân quyền, quyền công đoàn của người lao động…); mọi tranh chấp trên thị trường được ứng xử một cách văn minh qua phân xử và phán quyết của toà án; tính tự phát của thị trường, xung đột lợi ích giữa người tiêu dùng với người sản xuất được giảm thiểu thông qua điều tiết của các hiệp hội ngành nghề, cân bằng thông tin giữa các tổ chức xã hội đại diện cho lợi ích người tiêu dùng và người sản xuất.
Vị trí và vai trò của thị trường trong mối quan hệ ba bên: Theo nghĩa hẹp, “thị trường” có thể được nghiên cứu, khảo sát thông qua khái niệm “doanh nghiệp tư nhân”, bởi lẽ đây là một chủ thể tiêu biểu, điển hình của thị trường. Tất cả quy luật của thị trường đều có thể biểu hiện và hoạt động thông qua doanh nghiệp; cụ thể, doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh để sản xuất, lưu thông và bán hàng hóa trên thị trường đáp ứng nhu cầu của xã hội với chi phí thấp nhất có thể để tạo được giá trị thặng dư nhiều nhất có thể. Như vậy, trong quan hệ ba bên, thị trường - cụ thể ở đây là doanh nghiệp - có vị trí, vai trò của người sản xuất, kinh doanh, người bán các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ cho Nhà nước và “xã hội”. Trong mối quan hệ ba bên này, thị trường có vị trí bình đẳng như “xã hội” thể hiện ở việc doanh nghiệp chịu sự quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước và đồng thời, phải tuân thủ pháp luật và thực hiện chính sách của Nhà nước. Nhưng do Nhà nước và “xã hội” đồng thời lại có thể đóng vai “người tiêu dùng” và “người mua”, nên thị trường cần phải coi Nhà nước và “xã hội” như khách hàng, như “Thượng đế” để có thể phục vụ tốt nhất nhằm bán được hàng hóa, dịch vụ và đổi lại là sẽ thu được tiền bán với mức sinh lời nhiều nhất có thể. Tuy nhiên, so với “xã hội”, Nhà nước luôn có vị trí và vai trò của “khách hàng lớn nhất”, có thể mua với lượng hàng lớn và trả những khoản tiền khổng lồ nên thị trường phải đặc biệt coi trọng vị khách hàng đặc biệt này. Trong khi đó, “xã hội” luôn có vị trí, vai trò của khách hàng thường xuyên đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng và duy trì chiến lược bán hàng, chiến lược phục vụ phù hợp với vị “khách hàng thường xuyên” đó.
Mặt trái và “khuyết tật” của thị trường: 1- Các thế lực có lợi thế trên thị trường thường tìm cách tối đa hóa lợi nhuận bằng cách hướng lái chính sách của Nhà nước, giành lấy các cơ hội tiếp cận thông tin và nguồn lực có lợi, hình thành nên “nhóm trục lợi”, đe dọa đến lợi ích của các lực lượng ít có lợi thế hoặc các nhóm yếu thế trong xã hội; 2- Doanh nghiệp thường chỉ quan tâm đến những ai có khả năng thanh toán, chỉ theo đuổi và làm cái gì có lợi nhuận, mà thường ít chú ý đến các hàng hóa công cộng, lợi ích công cộng (khi ít hoặc không đem lại lợi nhuận); 3- Kinh tế thị trường lấy phân bổ kết quả sản xuất theo lao động, theo vốn đóng góp, gây nên tình trạng phân cực giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, nhất là tình trạng nghèo của những người không có cơ hội tiếp cận nguồn lực, người gặp rủi ro, có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt; 4- Tìm kiếm, tối đa hóa lợi nhuận nên doanh nghiệp thường có thiên hướng hy sinh các lợi ích công cộng, thậm chí có doanh nghiệp còn chấp nhận cả những việc làm suy đồi đạo đức (như hy sinh môi trường, sức khỏe của người tiêu dùng, làm hàng giả, hàng kém chất lượng…); 5- Tính tự phát của kinh tế thị trường gây các cuộc khủng hoảng chu kỳ hoặc suy thoái, gây ra các hệ lụy khôn lường cả về kinh tế và xã hội.
“Xã hội” - vị trí, vai trò và những hạn chế
Khái niệm “xã hội”: Theo nghĩa rộng, xã hội là xã hội Việt Nam đang được xây dựng nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Theo nghĩa rộng của xã hội, Nhà nước là một trong các thành phần tạo nên xã hội. Tuy nhiên, xã hội theo nghĩa rộng này chưa cho thấy rõ “thị trường”, mà thị trường chỉ thể hiện đặc biệt rõ trong quá trình xây dựng “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, theo nghĩa rộng, khái niệm “xã hội” được dùng để chỉ hệ thống xã hội với các thành phần, cấu trúc, các mối quan hệ xã hội phức tạp.
Theo nghĩa hẹp, “xã hội” được hiểu là “khu vực thứ ba” nằm cạnh Nhà nước và thị trường, gồm các giai tầng, cộng đồng (gồm cả gia đình), nhóm xã hội, được tập hợp thông qua các tổ chức xã hội hình thành một cách tự nguyện dựa trên các nguyên lý lợi ích (hiệp hội ngành nghề), nghề nghiệp (tổ chức xã hội nghề nghiệp), địa vực (làng/bản), huyết thống - hôn nhân (dòng họ, gia đình), đức tin (tôn giáo), nhân đạo, hữu nghị, sở thích…
Tổ chức xã hội: Là thiết chế tập hợp hội viên theo nguyên tắc tự nguyện, tự lập, tự dưỡng, hoạt động phi quyền lực chính trị, phi lợi nhuận, dựa vào các thể chế xã hội thành văn hoặc bất thành văn, theo đuổi giá trị xã hội và lợi ích của giai tầng, cộng đồng, nhóm xã hội nhất định. Khác với Nhà nước sử dụng biện pháp hành chính, doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm động lực, thì các tổ chức xã hội hướng dẫn hành vi của thành viên dựa trên các giá trị xã hội. Tổ chức xã hội vừa là một cơ sở xã hội của Nhà nước; vừa là thiết chế bảo vệ, thúc đẩy quyền lợi chính đáng, hợp pháp của thành viên; vừa là khách hàng của doanh nghiệp tham gia trên thị trường. Động lực của các tổ chức xã hội là giá trị xã hội và lợi ích chính đáng của mỗi giai tầng, cộng đồng, nhóm xã hội rất đa dạng.
Vị trí và vai trò của xã hội: Như đã phân tích, mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là mối quan hệ ba bên bất đối xứng. Tính chất bất đối xứng này thể hiện rõ qua việc xã hội (theo nghĩa rộng) có thành phần là Nhà nước và đòi hỏi Nhà nước phải trở thành Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, Nhà nước luôn gặp giới hạn và không phải lúc nào cũng đem lại lợi ích tối đa cho tất thảy người dân, nhất là những người yếu thế;… vì vậy, các tổ chức xã hội là cơ chế bổ sung cho những giới hạn của Nhà nước đối với các “vùng trung gian”, “vùng lõm” nhằm bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các giai tầng, cộng đồng, nhóm xã hội.
Trong mối quan hệ ba bên bất đối xứng đang được xây dựng, nhân tố xã hội (“xã hội” theo nghĩa hẹp) là người dân đóng vai trò làm chủ xã hội lớn, tham gia quản lý nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, xã hội theo nghĩa hẹp, cụ thể là những người dân, có vị thế, vai trò của chủ thể xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bị quy định bởi trình độ, điều kiện kinh tế thị trường cụ thể. Mục tiêu của phát triển xã hội theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp là phát triển con người; trong đó, thị trường có thể tạo ra động lực, cơ chế thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo các điều kiện và nguồn lực vật chất cho phát triển xã hội. Nhà nước quản lý mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội bằng pháp luật, chính sách nhằm bảo đảm phát triển xã hội hài hòa, bền vững.
Những hạn chế cơ bản của “xã hội”: 1- Các giai tầng, cộng đồng, nhóm xã hội rất đa dạng, tính thuần nhất không cao, dễ tạo ra tình trạng phân tán, cát cứ, tản mát, vô chính phủ, nếu thiếu Nhà nước mạnh và thiếu cơ chế huy động, tập hợp xã hội thống nhất; 2- Các tổ chức xã hội chỉ quan tâm đến lợi ích cục bộ của thành viên mà ít quan tâm đến lợi ích chung của toàn xã hội, hình thành nên các nhóm lợi ích đa dạng nhiều khi xung đột nhau hoặc xung đột với lợi ích chung, gây nên tình trạng bất cân xứng trong xã hội, làm tổn hại lợi ích các nhóm xã hội yếu thế; 3- “Xã hội” thường đề cao thể chế xã hội, cả thành văn và bất thành văn, gắn với tính tự quản, tự nguyện, dễ tạo ra những “lệ riêng” xa rời luật pháp, thậm chí phủ nhận luật pháp dưới các hình thức “bất tuân dân sự”; 4- Hoạt động phi lợi nhuận cũng là khu vực mà doanh nghiệp dễ lợi dụng tìm cách trốn thuế, chuyển giá; còn nếu dựa vào hỗ trợ từ ngân sách nhà nước thì lại dễ bị hành chính hóa, làm hạn chế tính tự chủ, tính đại diện bảo vệ cho quyền lợi hội viên; 5- “Hội chứng đám đông” của “xã hội” thường gây nên các hệ lụy khó lường cả về kinh tế và chính trị, nhất là hoạt động mua bán cổ phiếu, bất động sản hay các hành vi có tính đám đông khi bị kích động chính trị chống đối Nhà nước.
Sự cần thiết phải bổ khuyết lẫn nhau để mỗi chủ thể trong mối quan hệ ba bên này phát huy được điểm mạnh và hạn chế được điểm yếu, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, hài hòa, bền vững
Nhà nước vừa theo đuổi lợi ích công cộng, vừa bảo vệ lợi ích của lực lượng chính trị cầm quyền. Nhà nước pháp quyền, dân chủ thường lấy lợi ích công cộng làm mục tiêu cao nhất cho tổ chức và hoạt động của mình thông qua tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế trên thị trường, mở rộng phúc lợi cho người dân, tìm cách chính đáng hóa lợi ích của lực lượng cầm quyền trong lợi ích xã hội. Tuy vậy, không phải lúc nào Nhà nước cũng đạt được lợi ích công cộng ở mức lý tưởng, bởi lẽ Nhà nước luôn gặp giới hạn khi tác động đến “vùng trung gian”, “vùng lõm”, nhất là trong xử lý mối quan hệ giữa nhóm xã hội có lợi thế và nhóm xã hội bất lợi thế, giữa vùng thuận lợi và khó khăn, giữa hoạt động kinh doanh theo thị trường và hoạt động phi thị trường… Vì vậy, các tổ chức xã hội đóng vai trò như là cơ chế bổ sung cho những giới hạn của Nhà nước đối với các “vùng trung gian”, “vùng lõm” nhằm bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các giai tầng, cộng đồng, nhóm xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, với tư cách là nhà đầu tư, Nhà nước không chỉ là nhà quản lý mà còn là đối tác của doanh nghiệp, có vị thế bình đẳng trên thị trường và bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước vận hành trong nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ, hội nhập quốc tế không còn là nhà nước sở hữu, mà thừa nhận và bảo hộ quyền sở hữu và quyền tài sản của mọi chủ thể khác trong xã hội. Đó cũng là Nhà nước không cố nắm giữ mọi dịch vụ công mà chủ yếu chuyển sang kiểm soát chất lượng, sẵn sàng chuyển giao cho tư nhân và xã hội những gì họ làm tốt hơn Nhà nước(3).
Doanh nghiệp có xu hướng tối đa hóa lợi nhuận, xu hướng độc quyền, hạn chế cạnh tranh, hy sinh các lợi ích công cộng, gây nên các ngoại ứng tiêu cực (ô nhiễm môi trường, phân hóa giàu nghèo, gian lận thương mại…). Để tối đa hóa lợi nhuận, tiếp cận nguồn lực thuận lợi, doanh nghiệp và một bộ phận quan chức nhà nước có xu hướng bắt tay hình thành “nhóm trục lợi” hướng lái chính sách, vừa làm méo mó quy luật thị trường, vừa làm tha hóa Nhà nước, đe dọa đến lợi ích các nhóm bất lợi thế và yếu thế. Vì vậy, phải cần đến vai trò không thể thiếu của Nhà nước để tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi chủ thể sản xuất, kinh doanh, chống độc quyền, hạn chế ngoại ứng tiêu cực, phân xử công bằng các tranh chấp; và cũng cần đến các tổ chức xã hội để cân bằng tiếng nói khi tham gia hoạch định chính sách giữa nhóm sản xuất và nhóm tiêu dùng, giữa ngành hàng này với ngành hàng khác…, góp phần kiểm soát quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp, phòng ngừa “nhóm trục lợi” chính sách; tổ chức cung ứng dịch vụ xã hội phi lợi nhuận để khắc phục khuyết tật của thị trường vốn có thiên hướng chỉ quan tâm tới tối đa hóa lợi nhuận.
“Xã hội” có xu hướng theo đuổi các lợi ích cục bộ của giai tầng, cộng đồng, nhóm xã hội… mà giữa chúng nhiều khi xung đột nhau và cũng xung đột với lợi ích chung của toàn xã hội. Do đó, nếu thiếu bàn tay của Nhà nước thì sẽ gây nên tình trạng vô chính phủ, không giải quyết được lợi ích nhóm cục bộ và lợi ích công cộng; tương tự, nếu thiếu vận dụng nguyên tắc thị trường vào hoạt động quản trị tổ chức xã hội thì sẽ đẩy các tổ chức rơi vào trạng thái hành chính hóa, thiếu năng động, thiếu nguồn lực tài chính phục vụ cho mở mang phúc lợi. Có thể nhận thấy, “xã hội” theo đuổi giá trị xã hội, lấy giá trị văn hóa, đạo đức, nhân văn làm động lực phát triển, có ý nghĩa cân bằng với Nhà nước vốn dựa vào sức mạnh của quyền lực chính trị, cân bằng với doanh nghiệp vốn dựa vào sức mạnh của đồng tiền. Ở đây, “xã hội” dựa vào nhiều trụ cột phát triển nên có thể bảo đảm sự hài hòa, cân bằng và vấn đề đặt ra là phải có và thực hiện được sự kết hợp hợp lý giữa sử dụng quyền lực chính trị với quyền lực kinh tế và quyền lực văn hóa, đạo đức (giá trị xã hội). Vì vậy, cần phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của “xã hội” nhằm bổ sung cho giới hạn của Nhà nước và hạn chế, “khuyết tật” của thị trường, như hình thành các cơ chế tham gia giám sát, phản biện xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tiếng nói của các giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội được chuyển tải một cách cân bằng đến các cơ quan hoạch định chính sách, tránh để một “nhóm lợi ích” chi phối thông tin “đầu vào”, gây nên tình trạng bất cân xứng thông tin; tham gia điều tiết quan hệ cung - cầu trên thị trường thông qua các hiệp hội, liên hiệp hội ngành hàng(4).
Trong thực tế gần 35 năm đổi mới vừa qua đã xuất hiện sự điều chỉnh, hoán đổi, chuyển giao trách nhiệm giữa Nhà nước, thị trường và xã hội đối với nhiều nội dung thuộc lĩnh vực quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam. Chẳng hạn như: Khác với dịch vụ xã hội trước đổi mới do Nhà nước độc quyền cung ứng thì trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, dịch vụ xã hội do nhiều chủ thể đa dạng cung ứng, gồm Nhà nước, tư nhân, tập thể, cộng đồng. Vì thế, có loại dịch vụ xã hội thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước lập hệ thống tổ chức cung ứng, thường gọi là các đơn vị sự nghiệp công lập; có loại dịch vụ xã hội thuộc sở hữu tư nhân, do tư nhân cung ứng, hoạt động theo nguyên tắc của thị trường, tối đa hóa lợi nhuận; có loại dịch vụ xã hội thuộc sở hữu tư nhân hoặc sở hữu tập thể, sở hữu cộng đồng, hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận. Những dịch vụ xã hội hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận thường có nguồn gốc tài sản dịch chuyển từ sở hữu tư nhân thành sở hữu xã hội, sở hữu cộng đồng, với cơ chế tài chính đặc thù, chất lượng của dịch vụ không hoàn toàn đo lường được bằng giá cả theo trục xoay của giá thị trường, mà chúng bị điều chỉnh rất nhiều bởi giá trị đạo đức, nhân văn như trong giáo dục, y tế, trợ giúp xã hội…
Vì vậy, trong thời gian tới, Đảng cần tập trung xác định, nhận thức lại rõ ràng và đầy đủ hơn chức năng của Nhà nước để xây dựng nhà nước quản trị, nhà nước phục vụ nhân dân; xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ, góp phần củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và giải quyết tốt các vấn đề xã hội; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nhằm bổ sung cho giới hạn của Nhà nước và hạn chế “khuyết tật” của thị trường; dựa trên các giá trị công lợi, nhân văn, công bằng, phúc lợi cho người dân…, bởi đó chính là những giá trị chung và là cơ sở cho hợp tác, đối tác giữa Nhà nước, thị trường và xã hội ở nước ta.
Về phương diện thực tiễn, nghiên cứu, nhận diện mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội ở Việt Nam hiện nay phải xuất phát từ thực tiễn phát triển của Việt Nam, nhằm khắc phục tình trạng tách biệt giữa các chủ thể hiện nay, bảo đảm kết nối ba chủ thể này thành một phức thể trong quản lý phát triển xã hội, tránh chồng chéo, phân biệt đối xử; góp phần nâng cao hiệu quả phát triển xã hội nhanh và bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới./.
_________________________
Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 05.12.2020
* Bài viết là sản phẩm của đề tài cấp quốc gia: “Nghiên cứu mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam”, Mã số KX.01.50/16-20, thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ trọng điểm cấp quốc gia KX.01/16-20
(1) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017, tr28
(2) Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại đại hội đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương), Hà Nội, tháng 4.2020, tr. 22
(3) Xem: Nguyễn Chí Hiếu, “Định dạng cơ cấu và nhận thức rõ hơn chức năng, mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường và các tổ chức xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số tháng 8.2020
(4) Xem: Đoàn Minh Huấn, “Phát huy vai trò của xã hội góp phần bổ sung giới hạn của Nhà nước và hạn chế khuyết tật của thị trường”, Tạp chí Cộng sản, số 11, 2019
GS,TS Lê Ngọc Hùng – PGS,TS Nguyễn Chí Hiếu
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Một số giải pháp cải thiện hoạt động khai thác, xuất bản sách tinh gọn tại Việt Nam hiện nay
Sách tinh gọn, hay sách tóm tắt, là một sản phẩm tuy không mới nhưng do sự phát triển của các nền tảng số cũng như mạng xã hội mà đang trở thành xu hướng ở Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động này còn có nhiều vấn đề, như chưa tạo ra được lợi nhuận trực tiếp, dễ bị vi phạm bản quyền, các chế tài và quy định pháp luật tuy đã có nhưng chưa được cập nhật với tình hình thực tế, các đơn vị xuất bản vẫn còn e dè chưa phát triển mạnh. Do vậy, cần nâng cao vai trò của Cục Xuất bản, In và Phát hành - trung gian kết nối các yếu tố trong hoạt động khai thác sách tinh gọn cũng như những sản phẩm phái sinh. Đồng thời, các đơn vị xuất bản cũng cần đi đầu trong khai thác bản quyền, xây dựng hệ thống nhân sự chuyên nghiệp, giáo dục và tuyên truyền đến các tác giả nhằm phát triển hoạt động khai sách tinh gọn cho thị trường xuất bản Việt Nam.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận