Nhận thức đúng về giá trị dân chủ trong điều kiện đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam
Tư tưởng dân chủ là giá trị chung của nhân loại
Khi xã hội loài người hình thành, con người với tư cách là thực thể xã hội, con người biết làm chủ xã hội với những cấp độ: Làm chủ bản thân, làm chủ gia đình, làm chủ cộng đồng và làm chủ xã hội. Dân chủ gắn liền với tiến bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử, qua các chế độ xã hội và thời gian khác nhau. Dân chủ dùng để chỉ quyền làm chủ của nhân dân và xuất hiện khi có nhà nước và luôn gắn liền với một nhà nước nhất định, được hiến pháp, luật pháp của nhà nước đó quy định. Như vậy, trong xã hội có giai cấp, dân chủ mang bản chất giai cấp sâu sắc và trong khuôn khổ của pháp luật xã hội đó, không có dân chủ phi giai cấp, mọi luận điệu phủ nhận vấn đề này đều chỉ là sự lừa gạt, dối trá trước quần chúng. Giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì mới có đầy đủ điều kiện thực hiện được quyền làm chủ xã hội thực sự.
Dân chủ không phải là khái niệm bất biến mà là một phạm trù chính trị, lịch sử, văn hóa, xã hội và luôn gắn với sự tồn tại của các kiểu nhà nước trong những điều kiện cụ thể nhất định. Trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội, mỗi thời đại, mỗi quốc gia, dân tộc, dân chủ luôn có những nét đặc trưng.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, xét về bản chất chính là dân chủ của giai cấp chủ nô. Chế độ phong kiến, các tư tưởng và mô hình dân chủ bị hạn chế, cấm đoán bởi chế độ tập quyền chuyên chế khi quyền lực tuyệt đối nằm trong tay một đấng quân vương. Sự ra đời của nhà nước tư sản, nền dân chủ tư sản được xác lập do cuộc cách mạng tư sản dựa trên cơ sở liên minh giữa giai cấp tư sản với các giai cấp khác lật đổ chế độ phong kiến. Những tuyên bố về tự do, bình đẳng, bác ái, tư tưởng về nhà nước pháp quyền và xã hội công dân là những nội dung đầu tiên của dân chủ tư sản. Nhà nước tư sản đã đánh dấu một nấc thang phát triển về dân chủ so với dân chủ của chế độ chuyên chế phong kiến. Tuy nhiên, với bản chất của xã hội tư sản, nền dân chủ đại diện chỉ nhằm mục đích cao nhất là bảo vệ sự thống trị, bảo vệ quyền sở hữu, lợi ích của giai cấp tư sản và một bộ phận tinh hoa của xã hội.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, với tính cách là một nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản, dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa khác hẳn về chất so với các nền dân chủ trước đó. Mục tiêu xuyên suốt và cốt lõi của dân chủ xã hội chủ nghĩa là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, tạo ra ngày càng nhiều hơn các điều kiện thuận lợi để thực hiện xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, công lý cho mọi người, bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ, bình đẳng giữa các dân tộc. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở việc bảo vệ quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân lao động; thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do được bảo đảm về mặt pháp lý để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, có nội dung toàn diện, được thể hiện trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó nổi bật là sự tham gia một cách bình đẳng và rộng rãi của những người lao động vào công việc quản lý xã hội, quản lý nhà nước thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Bản chất dân chủ không phụ thuộc vào chế độ đa đảng hay một đảng
Lịch sử đã chứng minh, trình độ dân chủ không tỷ lệ thuận với sự gia tăng số lượng đảng chính trị. Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn, mỗi nước có hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, điều quan trọng là xã hội có phát triển không, nhân dân có được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc không và đất nước có ổn định để ngày càng phát triển hay không. Đó là tiêu chí quan trọng nhất. Dân chủ hay không dân chủ còn phụ thuộc vào việc đảng cầm quyền bảo vệ quyền và lợi ích của một nhóm người hay của đại đa số nhân dân, gắn với quyền dân chủ của nhân dân trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Hơn nữa, đa nguyên chính trị, đa đảng không phải là một giá trị phổ quát của nhân loại và là điều kiện tiên quyết cho một nền dân chủ.
Trên phương diện lý luận khoa học và thực tiễn cho thấy, trong chế độ đảng cộng sản duy nhất cầm quyền ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, vấn đề dân chủ không phụ thuộc vào đa nguyên chính trị, mà quan trọng nhất là xuất phát từ sứ mệnh, mục tiêu, lý tưởng của chính đảng cầm quyền có thật sự thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và phát huy quyền dân chủ của các tầng lớp nhân dân hay không.
Nhân dân Việt Nam được quyền làm chủ và thụ hưởng mọi thành quả chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
Trước khi có Đảng Cộng sản Việt Nam, hàng chục cuộc khởi nghĩa, phong trào chống thực dân Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, nhưng cuối cùng đều thất bại. Nhiều đảng phái thuộc mọi khuynh hướng chính trị đã ra đời nhưng đều không hoàn thành được sứ mệnh giành độc lập cho dân tộc, thậm chí nhiều đảng phái ngày càng thoái hóa biến chất, đi ngược lại lợi ích dân tộc, làm tay sai cho ngoại bang, đế quốc.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh và khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam-lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội Việt Nam-là hoàn toàn do nhân dân, dân tộc ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng ở nước ta đã đem lại độc lập, tự do cho dân tộc; quyền bình đẳng giữa các dân tộc, giữa các thành phần kinh tế; quyền tự do làm giàu theo pháp luật, phát huy dân chủ gắn liền với giữ vững kỷ cương xã hội. Thông qua cơ chế vận hành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã góp phần bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, để nhân dân xứng đáng là người làm chủ và người làm chủ thật sự của xã hội.
Những thành tựu kinh tế-xã hội trong 4 thập niên đổi mới của nước ta càng cho thấy rõ điều đó. Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) không ngừng mở rộng, năm 2024 đạt 476 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và đứng thứ 33 thế giới; thu nhập bình quân đầu người đạt mức 4.700USD. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Theo Báo cáo hạnh phúc thế giới 2025, Việt Nam xếp thứ 46 trong số 143 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng; xét ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng vị trí thứ 2 sau Singapore. Việt Nam nằm trong số các nước có xếp hạng chỉ số hạnh phúc liên tục tăng nhanh trong 3 năm trở lại đây. Từ năm học 2025-2026, Đảng, Nhà nước ta ban hành chính sách miễn học phí cho học sinh mầm non và học sinh phổ thông trên cả nước, hỗ trợ học phí cho học sinh mầm non và học sinh phổ thông ở các trường dân lập và tư thục. Thực hiện chủ trương của Đảng, giai đoạn 2026-2030 sẽ từng bước thực hiện lộ trình miễn viện phí cho toàn dân; phấn đấu 100% người dân được khám sức khỏe định kỳ ít nhất mỗi năm một lần.
Được biết, sau hơn 3 tuần triển khai lấy ý kiến nhân dân về nội dung dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 2013, đến ngày 28/5/2025, đã có gần 51,2 triệu ý kiến (trong đó có gần 2,6 triệu ý kiến của tổ chức và hơn 48,6 triệu ý kiến của cá nhân). Tổng số đó có hơn 49,9 triệu ý kiến tán thành (chiếm 98%) đối với dự thảo Nghị quyết sửa đổi Hiến pháp 2013. Điều đó cho thấy, các tầng lớp nhân dân ngày càng tham gia tích cực vào đời sống chính trị của đất nước, đồng thời thể hiện quyền dân chủ của người dân đã được phát huy trong thực tiễn.
Những minh chứng đó thêm một lần khẳng định bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng là cơ sở minh chứng những thành quả chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đã, đang thuộc về đại đa số nhân dân trong một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam./.
Nguồn: Bài đăng trên Báo Quân đội nhân dân điện tử ngày 05/06/2025
Bài liên quan
- Thiêng liêng cao quý chữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc"
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên
- Yêu cầu về chất lượng thông tin Cổng thông tin điện tử các trường đại học hiện nay
- Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
- Cán bộ, đảng viên Đảng bộ Học viện Báo chí và Tuyên truyền với việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa trường Đảng
Xem nhiều
-
1
Phim Tài liệu: Video Khoa xây dựng Đảng 50 năm Xây dựng và Phát triển
-
2
Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
-
3
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
-
4
Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực báo chí - truyền thông trong kỷ nguyên chuyển đổi số
-
5
Sự thay đổi thói quen, nhu cầu tiếp nhận công tin của công chúng phát thanh đô thị và khuyến nghị với các kênh phát thanh
-
6
Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Quản trị truyền thông thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần vốn nhà nước chi phối ở Việt Nam
Trong hệ thống tài chính - ngân hàng Việt Nam, các ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) có vốn nhà nước chi phối vừa là chủ thể kinh doanh, vừa thực thi mục tiêu ổn định vĩ mô, nên thương hiệu mang bản chất thể chế - thương mại, gắn với niềm tin về sự an toàn, minh bạch. Trong bối cảnh chuyển đổi số và cạnh tranh gia tăng, quản trị truyền thông (QTTT) thương hiệu của các ngân hàng này đối mặt “nghịch lý thể chế - tốc độ”: cơ chế quản trị nhiều tầng kiểm soát bảo đảm an toàn nhưng làm chậm phản ứng trước dòng chảy thông tin nhanh. Dựa trên khung lý thuyết về thương hiệu thể chế cùng dữ liệu khảo sát khách hàng và phỏng vấn cán bộ truyền thông do tác giả thực hiện, bài báo nhận diện ba biểu hiện của nghịch lý này và đề xuất tiếp cận QTTT thương hiệu như năng lực điều hành niềm tin thể chế, với ba trụ cột: quyền lực truyền thông; xây dựng hệ thông dữ liệu và cảnh báo sớm; thiết lập chế độ đối thoại với các nhóm công chúng.
Thiêng liêng cao quý chữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc"
Thiêng liêng cao quý chữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc"
Từ mùa thu năm 1945 lịch sử đến hôm nay, cụm từ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” vẫn vang vọng như một lời thề thiêng liêng, bất biến của dân tộc Việt Nam. Đó không chỉ là dòng chữ trang trọng nơi đầu mỗi văn bản, mà là mục tiêu sống, là giá trị cốt lõi được xây đắp bằng máu xương của bao thế hệ. Nhìn lại chặng đường phát triển đất nước, chúng ta càng thấm thía giá trị hòa bình, càng nhận rõ trách nhiệm giữ gìn, phát huy để thế hệ hôm nay và mai sau thực sự được sống trong độc lập, được thụ hưởng tự do, được trọn vẹn hạnh phúc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên là một hệ thống quan điểm có tính toàn diện, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Người. Tư tưởng và phong cách lãnh đạo của Hồ Chí Minh thể hiện ở tư duy đổi mới, phương pháp làm việc khoa học, dân chủ, nêu gương, gắn bó với quần chúng. Đồng thời, Người yêu cầu lãnh đạo phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hy sinh vì lợi ích chung, chống quan liêu, hình thức, chủ nghĩa cá nhân. Phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh vì vậy là tấm gương mẫu mực về đạo đức, trí tuệ và bản lĩnh, mãi soi sáng cho công tác lãnh đạo, quản lý và rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Yêu cầu về chất lượng thông tin Cổng thông tin điện tử các trường đại học hiện nay
Yêu cầu về chất lượng thông tin Cổng thông tin điện tử các trường đại học hiện nay
Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, Cổng thông tin điện tử (Cổng TTĐT) của các trường đại học không chỉ đóng vai trò là kênh cung cấp thông tin chính thống mà còn trở thành công cụ hỗ trợ đào tạo - nghiên cứu, quảng bá hình ảnh của nhà trường. Cho đến nay, hầu hết các trường đại học ở Việt Nam đều đã xây dựng và vận hành Cổng TTĐT, thể hiện sự quan tâm và nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của loại hình truyền thông này. Nhiều Cổng đã phát huy hiệu quả, bảo đảm tính chính xác, kịp thời, thân thiện với người dùng và có sức lan tỏa nhất định trong xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn không ít Cổng TTĐT hoạt động mang tính hình thức; nội dung thông tin chưa đa dạng, cập nhật, chưa phát huy được hết các tính năng truyền thông. Trước thực tế đó, từ bình diện lý thuyết, bài viết tập trung phân tích, làm rõ các khái niệm liên quan và yêu cầu đặt ra về chất lượng thông tin của Cổng TTĐT các trường đại học, góp phần giúp nhà trường thực hiện tốt hoạt động truyền thông, nâng cao hình ảnh, khẳng định thương hiệu trong kỷ nguyên số.
Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
Cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, sáp nhập đơn vị hành chính các cấp, vận hành chính quyền địa phương 2 cấp ở nước ta đang được triển khai mạnh mẽ theo quan điểm bảo đảm “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Cuộc cách mạng này đòi hỏi sự quyết tâm, đồng thuận rất cao và cũng đặt ra những thách thức to lớn cho đội ngũ công chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng ở tỉnh Hà Tĩnh. Bài viết phân tích một số vấn đề đặt ra, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ công chức cấp xã, góp phần vận hành thông suốt hiệu quả chính quyền địa phương 2 cấp ở tỉnh Hà Tĩnh thời gian tới.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận