Phát huy giá trị bộ bản đồ và tư liệu "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý" trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay
1. Tổng quan về Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý”
Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” là hệ thống các bản đồ, tư liệu, hình ảnh đặc sắc, có giá trị lịch sử và pháp lý cao, thể hiện chủ quyền hợp pháp của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đây là kết quả của quá trình nghiên cứu, tìm kiếm công phu, kỹ lưỡng; được Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với các bộ, ngành và các nhà khoa học, các nhà sưu tầm trong và ngoài nước tiến hành sưu tầm, thẩm định các tư liệu, bản đồ của Việt Nam, nước ngoài để xây dựng Bộ bản đồ và tư liệu này. Nguồn tư liệu và bản đồ có sự đóng góp rất lớn từ các đơn vị như Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I; Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, Ủy ban Nhân dân huyện Hoàng Sa... cùng một số tổ chức, cá nhân khác.
Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” gồm các bản đồ, tư liệu, hình ảnh được sắp xếp thành các nhóm chính: Hoàng Sa, Trường Sa trong thư tịch cổ và bản đồ cổ Việt Nam; Bản đồ xuất bản tại phương Tây (thế kỷ XVI - XIX) ghi nhận chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; Bản đồ Trung Quốc do phương Tây và Trung Quốc xuất bản (thế kỷ XVI - XX) xác nhận hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không thuộc về Trung Quốc; Hoàng Sa, Trường Sa trong thời kỳ Pháp thuộc và cho đến trước năm 1975; Một số tư liệu, hình ảnh về biển, đảo và công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.
Giá trị Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” thể hiện qua các nội dung chính sau:
Trước hết, Bộ bản đồ và tư liệu đã cho thấy, Nhà nước Việt Nam là chủ thể duy nhất đã khai phá, xác lập và thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ thế kỷ XVII bằng con đường hòa bình, liên tục và không có tranh chấp đến năm 1909. Điều này đã được thể hiện qua các nguồn sử liệu phong phú như Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá soạn năm 1686; Phủ biên tạp lục do Lê Quý Đôn biên soạn năm 1776; Hoàng Việt địa dư chí (1833); Đại Nam thực lục chính biên (1844 - 1848); Việt sử cương giám khảo lược (1876); Quốc triều chính biên toát yếu (1910)… Các tài liệu chính sử của Nhà nước Việt Nam như Đại Nam thực lục.
Đặc biệt, nội dung về các hoạt động quản lý và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn được phản ánh đậm nét và cụ thể trong các Châu bản triều Nguyễn. Đây là các văn bản hành chính chính thức của triều đình nhà Nguyễn, có dấu phê duyệt của Hoàng đế và ấn tín các cơ quan nhà nước nên mang tính pháp lý rất cao.
Thứ hai, Bộ bản đồ và tư liệu đã cho thấy chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được khẳng định và ghi nhận tại các hội nghị quốc tế quan trọng mà không có bất kỳ sự phản đối nào từ các quốc gia tham dự.
Tại hội nghị San Francisco (từ ngày 4 đến 8-9-1951, với sự tham dự của 51 quốc gia), Trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam, Thủ tướng chính quyền Bảo Đại, ông Trần Văn Hữu đã tuyên bố: “...để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi đối với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, những quần đảo luôn thuộc về Việt Nam”(1) mà không gặp bất cứ sự phản đối hoặc bảo lưu quốc tế nào.
Theo diễn tiến lịch sử, từ Tuyên bố Cai-rô ngày 27/11/1943 và Tuyên ngôn Hội nghị Postdam ngày 26/7/1945 khẳng định lại nội dung Tuyên bố Cai-rô cho đến Hòa ước San Francisco (ký ngày 8/9/1951), các văn kiện pháp lý quốc tế nói trên đã không xác nhận chủ quyền của bất cứ quốc gia nào khác đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Thứ ba, các tư liệu, bản đồ từ phương Tây đã mặc nhiên khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là những thực thể địa lý thuộc lãnh thổ của Việt Nam; đồng thời, những bản đồ vẽ lãnh thổ Trung Quốc do phương Tây và chính Trung Quốc xuất bản đều xác nhận lãnh thổ cực Nam của Trung Quốc chỉ giới hạn đến đảo Hải Nam, không có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Tiêu biểu như bản đồ của anh em nhà Van Langren (người Hà Lan) vẽ năm 1595. Bản đồ vẽ khá chi tiết, hình vẽ Hoàng Sa rõ ràng và điển hình, ghi rõ I.de Pracel. Quần đảo Hoàng Sa cùng với dải bãi ngầm và bãi cát Hoàng Sa được phân biệt rõ ràng với các đảo Pulo S.polo (Cù Lao Chàm), Pulo Catam (Cù Lao Ré), Pulo Cambir (Cù Lao Xanh)… ở ven bờ.
Bản đồ An Nam đại quốc họa đồ, do Giám mục người Pháp Jean Louis Taberd vẽ và nằm trong phụ bản của cuốn sách Dictionarium latino-anamiticum (Từ điển Latinh - An Nam), được xuất bản tại Calcutta (Ấn Độ) năm 1838 có ghi dòng chữ Latinh: Paracel seu Cát Vàng, nghĩa là “Paracel hoặc là Cát Vàng” để chỉ quần đảo Hoàng Sa thuộc về Việt Nam. Đặc biệt là bộ Atlas Universel do Philippe Vandermaelen (1795 - 1869), nhà địa lý học người Bỉ, người sáng lập Viện Địa lý Hoàng gia Bỉ biên soạn, xuất bản tại Bruxelles (Bỉ) vào năm 1827(2). Tờ bản đồ Partie de la Cochinchine ở tập 2 khẳng định Paracels (quần đảo Hoàng Sa) là thuộc Việt Nam. Điều này cho thấy sự thống nhất giữa bản đồ quốc tế và Việt Nam về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhiều bản đồ Trung Quốc do phương Tây vẽ đều ghi nhận lãnh thổ cực Nam Trung Quốc là đảo Hải Nam. Bản đồ Trung Quốc do các nhà nước Trung Quốc xuất bản và phát hành chính thức cũng đều thể hiện nhất quán như vậy. Đáng chú ý là bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ (do nhà Thanh xuất bản năm 1904), thể hiện lãnh thổ cực Nam của Trung Quốc chỉ giới hạn ở đảo Hải Nam. “Tấm bản đồ hơn trăm năm này không chỉ mang đến những thông tin lịch sử giá trị mà tự thân nó nói lên một thông điệp rằng, từ năm 1904, trong nhận thức của người Trung Quốc, cực nam đất nước của họ chỉ đến đảo Hải Nam. Đồng nghĩa, đây là một bằng chứng tư liệu do chính Trung Quốc xuất bản khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc chủ quyền của Trung Quốc”(3).
Ngoài ra, Bộ bản đồ và tư liệu còn có các bản đồ Việt Nam từ thế kỷ XVI - XIX ghi nhận chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tiêu biểu như Đại Nam nhất thống toàn đồ do vua Minh Mạng cho vẽ vào năm 1838, có thể hiện hai địa danh Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa bằng chữ Hán. Bản đồ vẽ hình thế tỉnh Quảng Ngãi trong tập Nam Việt bản đồ, biên soạn vào thế kỷ XIX. Chú dẫn phía trên bản đồ này có miêu tả địa danh Bãi Cát Vàng bằng chữ Nôm, ở ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi.
Các tư liệu của phương Tây xuất bản từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, trong đó có những trang văn bản miêu tả về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như quá trình người Việt đến hai quần đảo này để khai thác hải sản, cắm mốc chủ quyền và thực thi chủ quyền. Tiêu biểu như sách Tableau de la Cochinchine do E. Cortambert và Léon de Rosny biên soạn, xuất bản tại Paris năm 1862, viết về vương quốc Cochinchine. Trang 7 liệt kê Paracel trong bảng miêu tả về Cochinchine và ghi rõ: “đối diện với Huế là quần đảo Paracels tức là Kat-vang (Cát Vàng)”, khẳng định Paracels (tức quần đảo Hoàng Sa) chắc chắn thuộc về Việt Nam.
Về thời kỳ Pháp thuộc và cho đến trước năm 1975, Bộ bản đồ và tư liệu có các hình ảnh về quá trình chiếm giữ và thực thi chủ quyền của chính quyền Việt Nam và chính quyền Pháp ở Đông Dương trong những năm 1936 - 1954. Đây là những tư liệu được Ủy ban Biên giới Quốc gia - Bộ Ngoại giao cung cấp và một số hình ảnh hiện đang được lưu trữ tại UBND huyện Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng. Tiêu biểu như Nghị định số 4702-CP ngày 21/12/1933 của Thống đốc Nam Kỳ M.J. Krautheimer ký (Nghị định sáp nhập các đảo Trường Sa, An Bang, Itu Aba, nhóm Song Tử, Loại Ta và Thị Tứ vào địa phận tỉnh Bà Rịa). Hình ảnh tấm bia khẳng định chủ quyền do một đơn vị lính bảo an người Việt dựng trên đảo Hoàng Sa vào tháng 6-1938. Trên bia có khắc dòng chữ: “République Francaise - Empire d’Annam - Archipels des Paracels 1816 - Ile de Pattle 1938” (Cộng hòa Pháp - Đế chế An Nam - Quần đảo Hoàng Sa 1816 - Đảo Hoàng Sa 1938).
Thời kỳ Việt Nam Cộng hòa có các công văn, phiếu trình, văn bản hành chính liên quan đến công tác quản lý, thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa như cử quân đội bảo an người Việt ra đóng giữ ở các đảo Hoàng Sa, Trường Sa; công văn và tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa về việc vi phạm của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa.
Cùng với đó, Bộ bản đồ và tư liệu còn có những tài liệu, hình ảnh, thể hiện sự quan tâm, tình cảm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, quân đội, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài với những hành động thiết thực, chung sức bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Điều này đã khẳng định sự đoàn kết, quyết tâm, ý chí trước sau như một của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tộc Việt Nam đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
2. Công tác thông tin, tuyên truyền về Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý”
Trong những năm qua, Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” đã được giới thiệu, thông tin, tuyên truyền rộng rãi trên cả nước; đồng thời giới thiệu đến đông đảo bà con người Việt ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Trong đó, “Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm bản đồ và trưng bày tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” tại 63 tỉnh thành, phố trực thuộc Trung ương; 24 đơn vị lực lượng vũ trang, lực lượng kiểm ngư; 11 huyện, thành phố”(4).
Tính riêng trong năm 2019, Bộ Thông tin và Truyền thông đã “tổ chức triển lãm bản đồ và trưng bày tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” tại 5 đại học, trường đại học trên toàn quốc”(5), thu hút sự tham gia tìm hiểu về biển, đảo đất nước ở giới trẻ, đặc biệt là sinh viên.
Để lan tỏa hình ảnh đất nước, con người Việt Nam gắn với biển, đảo đến bạn bè quốc tế, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức 3 triển lãm ảnh, tư liệu với chủ đề “Việt Nam đất nước, con người - Nhìn từ biển, đảo” tại nước ngoài (Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Séc và Liên bang Nga), trong đó có những tư liệu, bản đồ thể hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bên cạnh đó, để đổi mới, đa dạng hóa phương thức tuyên truyền qua ứng dụng công nghệ thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng nội dung triển lãm số “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý”; từng bước nâng cấp công nghệ, chất lượng đồ họa, bổ sung tư liệu dựa trên cơ sở dữ liệu được số hóa nhằm thực hiện có hiệu quả việc thông tin, tuyên truyền chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông đến các đối tượng tuyên truyền ở mọi lúc, mọi nơi, thông qua mạng internet, thiết bị di động thông minh.
Giai đoạn 2015 - 2020, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức 61 cuộc triển lãm số “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” tại các trường trung học phổ thông trên địa bàn 21 tỉnh, thành phố trên toàn quốc. Trong năm 2019, Bộ Thông tin và Truyền thông đã “Tổ chức triển lãm số “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” tại 28 trường trung học phổ thông trên địa bàn 10 tỉnh trên toàn quốc”(6).
Trên cơ sở dữ liệu của Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” được Bộ Thông tin và Truyền thông cung cấp, trao tặng (là bản sao chụp và phần mềm số của Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý”), nhiều địa phương, đơn vị đã chủ động xây dựng kế hoạch và thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền về Bộ bản đồ và tư liệu đến đông đảo cán bộ, đảng viên, người lao động và nhân dân trên địa bàn.
Đơn cử như tại Khánh Hòa, “Giai đoạn 2017 - 2020, Sở Thông tin và Truyền thông đã tổ chức triển lãm lưu động và trưng bày tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa tại 7 huyện, thị xã, thành phố. Qua 7 đợt triển lãm (triển lãm kéo dài 3 ngày tại mỗi địa phương), đã đón tiếp 12.229 lượt người đến tham quan, tìm hiểu về triển lãm… Tổ chức 3 đợt triển lãm số “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” tại 3 trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Nha Trang, thu hút 4.750 giáo viên và học sinh tham dự”(7).
Nguồn tư liệu quý từ Bộ bản đồ và tư liệu đã được sử dụng trong các công trình nghiên cứu khoa học, xây dựng nội dung tuyên truyền về biển, đảo… góp phần không nhỏ nhằm lan tỏa giá trị Bộ bản đồ và tư liệu này đến mọi tầng lớp nhân dân những năm gần đây. Ngoài ra, những bản đồ, tư liệu quý này đã được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các nhà báo, phóng viên… lựa chọn, sử dụng trong các bài viết, nghiên cứu cũng như đấu tranh với những luận điệu sai trái, xuyên tạc chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đặc biệt là trên không gian mạng, góp phần không nhỏ vào công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc hiện nay.
Nhìn tổng thể, công tác thông tin, tuyên truyền về Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng:
Một là, Bộ bản đồ và tư liệu là những minh chứng sống động, xác đáng, giúp cho đông đảo nhân dân có một cái nhìn đầy đủ, trung thực về chủ quyền hợp pháp của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là hoàn toàn phù hợp, đáp ứng các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ, phù hợp với các quy định trong Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Hai là, Bộ bản đồ và tư liệu đã góp phần khẳng định lập trường chính nghĩa của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Qua đó khắc sâu ý thức về chủ quyền quốc gia trên biển đối với mỗi người dân Việt Nam; nâng cao tinh thần đoàn kết, ý thức trách nhiệm đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn dân trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Ba là, Bộ bản đồ và tư liệu đã giúp đồng bào ta ở nước ngoài cũng như bạn bè quốc tế có cách nhìn khách quan, trung thực về vấn đề chủ quyền trên Biển Đông. Điều này góp phần gắn kết bà con kiều bào với nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo quê hương cũng như tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với lập trường, ứng xử và hành động của Việt Nam liên quan đến vấn đề chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bốn là, những bằng chứng lịch sử và pháp lý mà Bộ bản đồ và tư liệu thể hiện là căn cứ vững chắc để Việt Nam đấu tranh bằng con đường ngoại giao, pháp lý, bảo vệ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đồng thời bác bỏ những yêu sách chủ quyền vô căn cứ từ phía Trung Quốc.
Bên cạnh đó, công tác thông tin, tuyên truyền giá trị Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” cũng có một số nội dung cần quan tâm:
Thứ nhất, bản sao chụp Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” đã được Bộ Thông tin và Truyền thông trao tặng cho nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị trên cả nước. Tuy nhiên, phát huy giá trị Bộ bản đồ và tư liệu vào hoạt động triển lãm, thông tin, tuyên truyền chưa có sự đồng nhất, mà còn tùy thuộc vào cách thức tổ chức và sự quan tâm của mỗi tổ chức, đơn vị.
Thứ hai, Bộ bản đồ và Tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” hiện có là những bản đồ, tư liệu đã được thẩm định nghiêm túc, kỹ lưỡng. Tuy nhiên hiện nay, trên thị trường và không gian mạng có rất nhiều tư liệu trôi nổi liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa chưa được kiểm chứng về giá trị và tính xác thực. Điều này ảnh hưởng không nhỏ về tính đồng nhất đối với những bản đồ, tư liệu thể hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thứ ba, nội dung bộ bản đồ và tư liệu trong những năm qua thường được tập trung trưng bày, giới thiệu tại các địa phương, đơn vị, các trường học, trường đại học… còn tại các diễn đàn học thuật, hội thảo khoa học các cấp chưa được chú trọng thông tin, tuyên truyền; mặc dù đây là kênh có thể phổ biến, lan tỏa những bằng chứng lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa đến công chúng cũng như giới học thuật.
Thứ tư, hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề Biển Đông, đặc biệt là lập trường, quan điểm về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa chưa được xây dựng thành một chủ đề riêng, trình bày đầy đủ và bao quát.
Thứ năm, công tác thông tin, tuyên truyền về giá trị Bộ bản đồ và tư liệu đối với đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế chưa được tổ chức nhiều để tạo sự lan tỏa mạnh mẽ về chủ quyền hợp pháp của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như lập trường, quan điểm của Việt Nam đối với vấn đề Biển Đông.
3. Một số giải pháp phát huy giá trị Bộ bản đồ và tư liệu trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay
Hiện nay, các nước trong và ngoài khu vực đều có chiến lược tuyên truyền về bảo vệ các chính sách của mình tại biển Đông, phản bác yêu sách của các nước khác, làm dư luận hiểu không đúng bản chất vấn đề Biển Đông. Thực tế này đặt ra những yêu cầu mới về công tác thông tin, tuyên truyền về biển, đảo nói chung và phát huy giá trị Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” nói riêng, do đó cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền giá trị Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” một cách bài bản, chắc chắn ngay từ cấp cơ sở. Theo đó, tại mỗi đơn vị hành chính cấp xã, cần có một bản sao Bộ bản đồ và tư liệu, đồng thời bố trí không gian trưng bày phù hợp, tùy điều kiện mỗi địa phương. Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về tuyên truyền biển, đảo cho cán bộ cấp cơ sở phụ trách công tác thông tin, tuyên truyền nhằm thông tin sâu rộng về giá trị Bộ bản đồ và tư liệu đến đông đảo nhân dân.
Về lâu dài, đây là điều cần thiết để những tư liệu, bản đồ thể hiện chủ quyền hợp pháp của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa được đông đảo nhân dân dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từ đó, giúp mỗi người dân có được những kiến thức cơ bản về chủ quyền quốc gia trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Đồng thời, những tư liệu sinh động từ Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” là điều kiện cần thiết để mỗi người dân nhận thức sâu sắc hơn giá trị thiêng liêng về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc đã được định hình xuyên suốt chiều dài lịch sử; từ đó bồi đắp ý chí, nuôi dưỡng quyết tâm đối với công cuộc đấu tranh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay.
Hai là, kịp thời chuẩn hóa tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong những năm qua, đặc biệt là khi Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 11/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác sưu tầm, thẩm định, công bố, sử dụng các tài liệu, bản đồ, ấn phẩm và khen thưởng đối với các cá nhân, tổ chức đã sưu tầm và hiến tặng tài liệu liên quan đến chủ quyền biển, đảo Việt Nam được ban hành, công tác sưu tầm, thẩm định các tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã được tiến hành nghiêm túc, cẩn trọng, với sự tham gia của nhiều tổ chức, cá nhân, chuyên gia nghiên cứu về biển, đảo.
Trên cơ sở những kết quả sưu tầm, thẩm định, cần chuẩn hóa các tư liệu, bản đồ thể hiện chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa cả về hình thức lẫn giá trị khoa học, pháp lý; đồng thời bổ sung vào Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” một cách đầy đủ, toàn diện.
Bên cạnh đó, nguồn tư liệu, bản đồ sau khi được chuẩn hóa cần được xây dựng thành cơ sở dữ liệu số một cách hệ thống và được cập nhật trên các trang thông tin của các cơ quan, tổ chức nhà nước có nhiệm vụ quản lý, bảo vệ, nghiên cứu, tuyên truyền về biển, đảo. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, tra cứu tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa một cách nhanh chóng, dễ dàng; tránh được việc viện dẫn, sử dụng tư liệu về Hoàng Sa, Trường Sa trôi nổi trên không gian mạng, chưa được kiểm chứng hoặc chứa yếu tố phản ánh sai lệch chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
Ba là, thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền về Bộ bản đồ và tư liệu một cách khoa học, có trọng tâm, trọng điểm. Trong bối cảnh hiện nay, ngoài việc trưng bày, triển lãm Bộ bản đồ và tư liệu theo kế hoạch thường niên và các sự kiện quan trọng hằng năm của mỗi tổ chức, đơn vị; cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, giới thiệu Bộ bản đồ và tư liệu, đặc biệt là các tư liệu mới phát hiện, bổ sung… tại các diễn đàn học thuật. Đây là một kênh quan trọng giúp cho việc lan tỏa những bằng chứng lịch sử và pháp lý về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đến giới nghiên cứu… từ đó thúc đẩy việc minh chứng, khẳng định chủ quyền hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông trên các diễn đàn, ấn phẩm khoa học.
Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp nhằm tổ chức các đợt trưng bày, triển lãm Bộ bản đồ và tư liệu tại nước ngoài nhiều hơn, hướng đến đối tượng là bạn bè quốc tế và đồng bào ta ở nước ngoài. Trên cơ sở Bộ bản đồ và tư liệu hiện có, nên có sự lựa chọn những tư liệu, bản đồ, hình ảnh tiêu biểu của mỗi chủ đề; đồng thời biên dịch sang ngôn ngữ các nước có đông người Việt Nam đang sinh sống, công tác, học tập và lao động để xây dựng thành ấn phẩm thông tin phù hợp. Qua đó, mỗi người Việt ở nước ngoài đều có thể sử dụng, giới thiệu về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam đến bạn bè quốc tế một cách thiết thực, hiệu quả.
Bốn là, bổ sung, hoàn thiện hệ thống tư liệu về chủ trương, quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề Biển Đông cũng như chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Đây là một nội dung rất quan trọng, cần được sắp xếp khoa học, hợp lý theo diễn tiến lịch sử, thể hiện lập trường nhất quán của Việt Nam đối với vấn đề chủ quyền trên Biển Đông. Đồng thời, quan điểm, chính sách và hành động của Việt Nam giai đoạn gần đây cần được khắc họa cụ thể, rõ nét nhằm thể hiện tính chính nghĩa, tôn trọng luật pháp quốc tế cũng như tinh thần hòa hiếu của Việt Nam trong giải quyết các bất đồng, tranh chấp trên Biển Đông.
Điều này góp phần thể hiện ý chí, quyết tâm trước sau như một của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tộc trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc; qua đó vừa củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân với công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất nước trên Biển Đông, vừa lan tỏa tính hợp pháp, chính nghĩa, chủ trương giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình của Việt Nam đến bạn bè quốc tế; tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với Việt Nam trong chính sách, lập trường, hành động và ứng xử đối với các vấn đề liên quan đến chủ quyền trên Biển Đông.
Bộ bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” là bằng chứng xác đáng, đanh thép khẳng định chủ quyền hợp pháp, không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phát huy giá trị Bộ bản đồ và tư liệu trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay là một trong những yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng, góp phần củng cố, nâng cao nhận thức của nhân dân về vấn đề chủ quyền biển, đảo đất nước; thể hiện chủ quyền hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông đến đông đảo bạn bè quốc tế; đồng thời đấu tranh, phản bác với những quan điểm xuyên tạc chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là cơ sở vững chắc nhằm góp phần thực hiện tốt công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng trong bối cảnh hiện nay.
____________________________________________
(1) Bộ Ngoại giao, Ủy ban Biên giới quốc gia: Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2013, tr.42.
(2) Bộ Atlas Universel do Philippe Vandermaelen (1795 - 1869) biên soạn, gồm 6 tập: Châu Âu (tập 1), Châu Á (tập 2), Bắc Mỹ (tập 3), Nam Mỹ (tập 4), Châu Phi (tập 5) và Châu Úc (tập 6).
(3) Mai Hồng - Lê Trọng (2015), Hoàng Sa, Trường Sa là máu thịt Việt Nam, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, tr.57.
(4) Bộ Tài Nguyên và Môi trường (2022),Thuyết minh Chương trình truyền thông về biển và đại dương đến năm 2030, Hà Nội, tr.15.
(5) (6) Bộ Thông tin và truyền thông: Báo cáo số 12/BC-BTTTT ngày 13/3/2020, Báo cáo kết quả triển khai thực hiện Đề án tuyên truyền bảo vệ chủ quyền và phát triển bền vững biển, đảo Việt Nam năm 2019 theo Quyết định số 930/QĐ-TTg ngày 28-7-2018 của Thủ tướng Chính phủ, tr.2.
(7) Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Khánh Hòa: Báo cáo Kết quả thông tin, tuyên truyền chủ quyền biển, đảo, ngày 22/6/2022 (gửi Đoàn công tác Học viện Chính trị khu vực III).
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày15/9/2023
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Chuyển đổi số báo chí và đào tạo báo chí
Chuyển đổi số báo chí là sự thay đổi toàn diện, cả về phương thức hoạt động, mô hình tổ chức, kỹ năng sáng tạo và truyền tải thông tin báo chí, đòi hỏi sự thay đổi về nhận thức, thái độ từ các nhà lãnh đạo đến mỗi nhà báo trong các cơ quan báo chí. Chuyển đổi số cũng là điều kiện phát triển báo chí dựa trên mô hình hội tụ, đa nền tảng, đa phương tiện, đa dịch vụ... Quá trình đó cũng tác động sâu sắc và toàn diện đến hoạt động đào tạo báo chí để tạo dựng nguồn nhân lực thích ứng với bối cảnh chuyển đổi số.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận