Phát huy nguồn lực nhân văn trong sinh viên dưới góc độ tiếp cận chính trị - xã hội
Nguồn lực nhân văn, bên cạnh các nguồn lực khác trong sự phát triển của đất nước như nguồn lực con người, nguồn lực kinh tế, nguồn lực tài nguyên, thì có thể xem là nguồn lực mang tính tổng hợp, tồn tại cả dạng hiện hữu và tiềm ẩn cùng chiều sâu về văn hoá - lịch sử đặc biệt. Về bản chất, nguồn lực nhân văn bắt nguồn và gắn bó mật thiết với các chiều kích xã hội, nổi bật hơn cả: hệ giá trị tư tưởng, đạo đức; phẩm chất, tính cách cá nhân; tôn giáo, tín ngưỡng, niềm tin xã hội; truyền thống văn hoá, lịch sử; cảm quan thẩm mỹ, nghệ thuật; ý thức và trách nhiệm xã hội; tri thức, tình cảm, lý tưởng sống của con người. Đây có thể coi là những yếu tố nội sinh, nhân văn quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
Nguồn lực nhân văn là một khái niệm có ý nghĩa sâu sắc trong quá trình phát triển bền vững của mỗi quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số hiện nay. Đối với Việt Nam, trong chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn nhấn mạnh vai trò trung tâm và động lực của con người - vừa là mục tiêu, vừa là chủ thể của sự nghiệp cách mạng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”(1). Quan điểm này là nền tảng trong phát huy nguồn lực nhân văn, nhất là giáo dục và đào tạo cho thế hệ trẻ, trong đó có tầng lớp sinh viên, những con người sẽ làm chủ đất nước trong tương lai.
Trong tổng thể các nguồn lực phát triển quốc gia, sinh viên là một bộ phận quan trọng, đại diện cho trí tuệ, hoài bão và tiềm năng sáng tạo của dân tộc. Họ là lớp người đang ở độ tuổi phát triển mạnh mẽ về thể chất, trí tuệ, tâm hồn và nhân cách, dễ tiếp thu cái mới, có khả năng thích ứng nhanh với sự biến đổi của xã hội. Việc phát huy nguồn lực nhân văn trong sinh viên không chỉ góp phần xây dựng lớp công dân có trách nhiệm, giàu bản lĩnh, mà còn là nhân tố thúc đẩy phát triển bền vững đất nước.
Bài viết tiếp cận vấn đề phát huy nguồn lực nhân văn trong sinh viên dưới góc độ chính trị - xã hội, nhằm làm rõ cơ sở lý luận, phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng, nâng cao nguồn lực nhân văn trong sinh viên hiện nay.
1. Quan niệm Nguồn lực nhân văn và yếu tố tác động đến nguồn lực trong sinh viên
1.1. Về nguồn lực nhân văn
Khái niệm “nguồn lực nhân văn” được tiếp cận với nhiều góc độ khác nhau, song nhìn chung, có thể hiểu là sự tổng hòa các giá trị nhân văn, phẩm chất đạo đức, năng lực trí tuệ, cảm xúc, thái độ và trách nhiệm xã hội của con người. Đây là một “trong những yếu tố quan trọng, quyết định sự thành công đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia”(2). Qua đó, đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển bền vững của quốc gia - dân tộc, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ như hiện nay.
Dưới góc độ chính trị, nguồn lực nhân văn là biểu hiện của nội lực quốc gia, phản ánh trình độ phát triển văn hóa - chính trị - xã hội của một dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định vai trò trung tâm, quyết định của con người đối với sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Người nhấn mạnh: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”(3) và qua đó, Người đặc biệt quan tâm đến việc “trồng người”, coi giáo dục thế hệ trẻ là quốc sách hàng đầu.
Quan điểm này tiếp tục được kế thừa và phát triển trong các văn kiện của Đảng, thể hiện nhất quán về tư duy lấy con người làm trung tâm. Đảng ta xác định rõ: “Chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản là yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”(4).
Trong cấu trúc xã hội hiện đại, sinh viên là lực lượng trí thức trẻ có vị trí then chốt. Vừa là chủ thể thụ hưởng giáo dục - đào tạo, vừa là chủ thể kiến tạo tương lai chính trị - xã hội của đất nước. Với đặc điểm năng động, nhạy bén, giàu tiềm năng sáng tạo, sinh viên có vai trò lan tỏa các giá trị nhân văn, thúc đẩy cải biến xã hội theo chiều hướng tích cực. Vì vậy, phát huy nguồn lực nhân văn trong sinh viên phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và cộng đồng; giữa giáo dục - đào tạo và môi trường chính trị - xã hội rộng lớn, môi trường hình thành và nuôi dưỡng và lan toả các giá trị tốt đẹp.
1.2. Các yếu tố tác động đến nguồn lực nhân văn trong sinh viên hiện nay
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng, sinh viên Việt Nam ngày nay có nhiều cơ hội tiếp cận tri thức hiện đại, công nghệ mới và không gian giao lưu văn hóa đa dạng. Tuy nhiên, cũng chính trong bối cảnh ấy, những thách thức đối với sự phát triển nhân cách, giữ vững bản lĩnh chính trị và giá trị nhân văn trong sinh viên ngày càng gia tăng, đặt ra yêu cầu cấp thiết cho công tác bồi dưỡng các giá trị nhân văn cho sinh viên trong bối cảnh mới.
Trước hết, sự phát triển nhanh chóng của mạng xã hội, công nghệ thông tin và truyền thông số đã định hình lại không gian sống, học tập và tương tác xã hội của sinh viên. Tuy đây là điều kiện thuận lợi để sinh viên mở rộng tri thức, tầm nhìn, kết nối toàn cầu song cũng khiến nhiều người dễ rơi vào trạng thái sống “ảo”, lệch chuẩn giá trị tốt đẹp, tiếp nhận thông tin thiếu chọn lọc, và có nguy cơ bị dẫn dắt bởi các luồng thông tin phản văn hoá, luận điệu sai trái, phản động.
Thứ hai, các biến động xã hội như khủng hoảng kinh tế, phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo, chuyển dịch và xung đột văn hóa đã tác động đến thế giới quan và nhân sinh quan và định hướng giá trị của sinh viên. Nhiều sinh viên hiện nay đang mất định hướng nghề nghiệp, lý tưởng sống, dẫn đến hiện tượng thực dụng, tôn thờ lợi ích cá nhân, lối sống tư bản, thờ ơ với các vấn đề chính trị – xã hội, thậm chí “làm không ít sinh viên xa rời các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp vốn vẫn đang phù hợp với thời kỳ hiện đại”(5). Điều này cũng đặt ra thách thức lớn cho công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong các cơ sở giáo dục đại học hiện nay.
Đại hội XIII đã đưa ra: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”(6). Dù phát biểu này dành cho cán bộ, đảng viên, nhưng cũng là lời cảnh tỉnh sâu sắc đối với toàn xã hội, đặc biệt là đối với thanh niên, gồm cả sinh viên - nhóm dễ bị tác động nhất bởi môi trường thông tin, dòng chảy văn hoá và thay đổi chính trị - xã hội.
Thứ ba, sự chuyển đổi mô hình giáo dục đại học từ định hướng nhà nước sang tự chủ cũng đặt ra yêu cầu mới đối với việc giáo dục nhân văn, lý tưởng sống, trách nhiệm xã hội cho sinh viên. Nếu chỉ chú trọng đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo chuẩn đầu ra hay yêu cầu của nhà tuyển dụng mà coi nhẹ giáo dục chính trị - tư tưởng, thiếu cân đối trong giáo dục con người thì nguy cơ hình thành lớp trí thức mới thiếu bản lĩnh, xa rời truyền thống dân tộc là điều không thể xem nhẹ. Điều này đòi hỏi sự kết hợp hiệu quả giữa các yếu tố trong tổng thể quá trình đào tạo đại học, không thể tách rời bối cảnh chính trị - xã hội của quốc tế, khu vực và đất nước.
2. Thực trạng phát huy nguồn lực nhân văn trong sinh viên
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, nguồn lực nhân văn trong sinh viên Việt Nam vẫn là một dòng chảy mạnh mẽ, kế thừa tinh hoa văn hoá nhân loại và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thể hiện qua nhiều phong trào, hoạt động và xu hướng tích cực trong đời sống sinh viên như:
Thông qua các hoạt động, chương trình của Đoàn, Hội Sinh viên các cấp đã “tạo điều kiện cho sinh viên học tập, rèn luyện và tham gia vào các hoạt động xã hội và tình nguyện, thể hiện vai trò xung kích của thế hệ trẻ với cộng đồng”(7).
Sinh viên được tham gia đào tạo tại các cơ sở giáo dục đại học “là trung tâm đào tạo nhân lực, nghiên cứu khoa học và kết nối doanh nghiệp trong hệ sinh thái khởi nghiệp”(8). Từ đó, góp phần thúc đẩy chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Các phong trào tiêu biểu, thu hút đông đảo sinh viên tham gia như phong trào “Sinh viên 5 tốt”, “Tiếp sức mùa thi”, “Hiến máu tình nguyện”… được Ban Giám hiệu, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên trong các cơ sở giáo dục đại học và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp triển khai rộng rãi và lan tỏa giá trị nhân văn sâu sắc.
Vai trò của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên tại các cơ sở giáo dục đại học trở nên thiết thực hơn, nhất là trong định hướng, tổ chức và lan toả các hành động, phong trào ý nghĩa, “các hoạt động vì cộng đồng như Hiến máu tình nguyện, mùa hè Xanh, Đền ơn đáp nghĩa, Tuổi trẻ vì biển đảo quê hương, Thanh niên với văn hoá giao thông…”(9).
Nhiều cơ sở giáo dục đại học đã lồng ghép, đan xen giáo dục nhân văn vào các hoạt động nghiên cứu, học thuật; văn hoá, nghệ thuật. Sinh viên tham gia thể hiện ý thức chính trị khi tham gia “tiếp cận các vấn đề chính trị - xã hội, thông qua các hoạt động đoàn thể, tranh luận, trao đổi tư tưởng…”(10).
Tuy nhiên, bên cạnh những biểu hiện tích cực, thực trạng phát huy nguồn lực nhân văn trong sinh viên hiện nay vẫn tồn tại không ít vấn đề đáng lo ngại.
Một bộ phận sinh viên đang sống thiếu lý tưởng, thiếu khát vọng cống hiến, dễ bị cuốn theo lối sống thực dụng, thậm chí “ý thức cá nhân cao lấn át cộng đồng, coi lợi ích cá nhân quan trọng hơn”(11). Bên cạnh đó, tình trạng thờ ơ với các vấn đề chính trị – xã hội, xuất hiện “sự thực dụng, ích kỷ trong các quan hệ ứng xử, coi trọng giá trị vật chất hơn giá trị tinh thần”(12).
Thêm vào đó, sự “nhiễu loạn thông tin” trong không gian mạng và truyền thông số khi thiếu đi sự định hướng từ nhà trường, gia đình càng khiến sinh viên dễ rơi vào trạng thái hoang mang, mất phương hướng, “lạnh lùng trong các mối quan hệ tình cảm, như một tuyên ngôn cho lối sống lạnh lùng, vô cảm, thiếu hụt những đam mê và khát vọng”(13) đã làm lệch chuẩn, hoặc xa rời các giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc.
Ngoài ra, vai trò của gia đình và Nhà trường có nơi, có chỗ còn bị xem nhẹ. Nếu sự giáo dục từ gia đình bị lệch lạc, ứng xử thiếu văn hoá, tồn tại nhiều mâu thuẫn, thậm chí là cả vi phạm pháp luật…thì sẽ ảnh hưởng xấu tới sự phát triển nhân cách, văn hoá ứng xử của sinh viên đó. Sự thật mà qua báo chí phản ánh, đã có những sinh viên vi phạm pháp luật tới mức độ phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thêm nữa là, tình trạng một bộ phận sinh viên còn học theo trào lưu, xu hướng trên “không gian mạng” và cả đời sống thực tiễn mà không nhận thức rõ được là trào lưu đúng, phù hợp hay sai, đi ngược lại với truyền thống văn hoá dân tộc. Hiện tượng sinh viên xăm mình, đua đòi ăn chơi, tham gia tệ nạn xã hội, cầm cố, vay nặng lãi…đã xuất hiện và ẩn khuất trong vỏ bọc là con ngoan, trò giỏi. Điều này, có thể chỉ sinh viên đó mới biết mà thầy cô, bạn bè, gia đình, Nhà trường cũng không thể nắm bắt hay tiếp cận. Và hậu quả dẫn tới là sự suy giảm đạo đức, văn hoá, suy nghĩ và cả lối sống. Thêm đó, việc đấu tranh trước những hành vi tiêu cực trong cộng đồng sinh viên, có nơi, có chỗ chưa cao; chỉ khi phát hiện thì sự việc đã diễn biến quá muộn, làm ảnh hưởng danh dự của tập thể, của Nhà trường và gia đình.
Tình hình trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải có các giải pháp căn cơ, đồng bộ và toàn diện, nhằm phát huy tối đa nguồn lực nhân văn trong sinh viên - lực lượng nắm giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như sẵn sàng tâm thế trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
3. Một số giải pháp phát huy nguồn lực nhân văn của sinh viên hiện nay
Một là, Tăng cường giáo dục chính trị – tư tưởng và giá trị nhân văn trong các trường đại học
Giáo dục chính trị - tư tưởng giữ vai trò định hướng, nền tảng cho sự phát triển nhân cách, bản lĩnh chính trị và giá trị sống của sinh viên. Trong bối cảnh chuyển đổi số như hiện nay, việc tăng cường giáo dục chính trị - tư tưởng và các giá trị nhân văn không chỉ dừng ở mức trang bị kiến thức lý luận mà phải chú trọng vào xây dựng năng lực tư duy, phân tích bối cảnh và giữ vững lập trường chính trị.
Các trường đại học cần đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy các môn lý luận chính trị theo hướng gắn với thực tiễn đời sống xã hội, thông qua các tình huống chính trị - xã hội cụ thể, các hình thức thảo luận, nghiên cứu chuyên đề, tham quan, khảo nghiệm, thực tế di sản, di tích văn hoá…nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, lý tưởng cống hiến và trách nhiệm công dân.
Đồng thời, cần tích hợp giáo dục giá trị nhân văn trong mọi hoạt động giảng dạy - học tập - nghiên cứu. Từ nâng cao năng lực giảng dạy cho đội ngũ giảng viên, kích thích tinh thần học tập, rèn luyện của sinh viên cho tới nội dung bài giảng, phương pháp truyền thụ, giảng dạy; hoạt động ngoại khoá, tập thể và sinh hoạt định kỳ với sinh viên. Những giá trị nhân văn cốt lõi như truyền thống nhân ái, đoàn kết, kiên cường, anh dũng, trung thực, trách nhiệm xã hội…cần được hiện thực hoá sinh động trong môi trường đại học.
Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về “đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” đã nhấn mạnh: “Tăng cường đầu tư, đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”(14). Việc phát triển con người - trong đó có sinh viên - theo hướng toàn diện cả đức, trí, thể, mỹ phải gắn chặt với triết lý nhân văn và tinh thần dân tộc.
Hai là, Xây dựng môi trường đại học giàu tính nhân văn
Môi trường giáo dục đại học không chỉ là không gian giáo dục - đào tạo và truyền thụ tri thức, mà còn là hệ sinh thái văn hóa - xã hội góp phần định hình gái trị của sinh viên. Trong cấu trúc nguồn lực nhân văn cho sinh viên, môi trường giáo dục đại học đóng vai trò then chốt, là nơi “ươm mầm” những giá trị nhân văn cao đẹp, nền tảng tinh thần như sự tôn trọng, tinh thần trách nhiệm, lòng nhân ái, vị tha, thái độ tích cực và ý thức cộng đồng.
Các cơ sở giáo dục đại học cần chú trọng xây dựng một môi trường giáo dục dân chủ, tích cực, thân thiện và gợi mở sự sáng tạo. Trong đó, tôn trọng sự khác biệt, khuyến khích sinh viên thể hiện tư duy phản biện, tinh thần hợp tác và phát triển toàn diện về trí tuệ - tâm hồn - kỹ năng làm nền tảng. Cơ chế quản trị đại học cũng cần hướng đến giáo dục khai phóng, sự cởi mở, lắng nghe và trao quyền cho sinh viên tham gia vào việc hoạch định các chính sách giáo dục, từ đó nuôi dưỡng tinh thần công dân chủ động và có trách nhiệm.
Các hoạt động ngoại khóa, phong trào đoàn - hội, câu lạc bộ học thuật, câu lạc bộ sinh viên, diễn đàn thanh niên, tọa đàm xã hội… cần được tổ chức thường xuyên, bài bản, có tính giáo dục cao và quy tụ được sinh viên tham gia. Hạn chế tối đa tình trạng tổ chức tràn lan nhưng không mang lại hiệu quả. Vừa tạo không gian giao lưu, kết nối, mà còn là “trường học thứ hai”, nơi sinh viên có cơ hội thực hành các giá trị nhân văn thông qua trải nghiệm thực tế, bày tỏ chính kiến, đóng góp sáng kiến và thể hiện tinh thần và trách nhiệm vì cộng đồng, xác lập vị trí của bản thân.
Đặc biệt, các hoạt động tình nguyện, bảo vệ môi trường, khởi nghiệp xã hội, văn hoá ứng xử và phát triển bền vững cần được khuyến khích, nhân rộng và lan toả như một phần thiết yếu trong chương trình đào tạo và đánh giá năng lực văn hoá, năng lực thực hành của sinh viên. Việc gắn kết lý thuyết với thực hành, lý luận với thực tiễn, học tập, tu dưỡng với phụng sự xã hội chính là con đường hiệu quả để chuyển hóa giá trị nhân văn thành hành vi cụ thể, tạo sức ảnh hưởng trong cộng đồng sinh viên, nhà trường và xã hội.
Ngoài ra, cần trang bị các kỹ năng và nghiệp vụ chuyên môn trong ứng xử có văn hoá trên “không gian mạng” cho sinh viên cũng cần phải được chú trọng. Nhất là trong nhận diện các nguồn thông tin vô hạn trên internet hay mạng xã hội. Điều này giúp sinh viên nhận thức rõ được các nguồn thông tin đúng hay sai lệch theo chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; biết cách ứng xử văn minh, lành mạnh, hướng đến là công dân số trong kỷ nguyên chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo mạnh mẽ như hiện nay.
Ba là, Tăng cường vai trò của tổ chức Đoàn, Hội Sinh viên trong giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống
Trong cấu trúc chính trị - xã hội tại các cơ sở giáo dục đại học, tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên (Đoàn - Hội) là các tổ chức quần chúng đặc biệt; là cầu nối quan trọng giữa nhà trường, sinh viên và xã hội; giữ vai trò nòng cốt trong việc giáo dục, tổ chức, định hướng và huy động lực lượng sinh viên vào các hoạt động chính trị - xã hội; rèn luyện và bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, lý tưởng cách mạng.
Đối với thế hệ sinh viên hiện nay, chủ yếu ở độ tuổi GenZ (sinh sau năm 2000), với khả năng thích ứng và tiếp cận thông tin nhanh nhưng cũng dễ bị chi phối bởi các xu hướng, giá trị đa chiều (cả tích cực và tiêu cực). Do vậy, vai trò của Đoàn - Hội cần được thể hiện theo hướng mềm dẻo, linh hoạt, thiết thức, hấp dẫn gắn với nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ Đoàn - Hội, nhất là sinh viên có năng khiếu, năng lực nổi bật như đào tạo bài bản về kỹ năng tổ chức hoạt động; ứng dụng chuyển đổi số và truyền thông hiện đại; phương pháp và kỹ năng xử lý tình huống hoạt động Đoàn - Hội.
Bên cạnh đó, cần khai thác hiệu quả các phương tiện truyền thông hiện đại như mạng xã hội, nền tảng số, báo chí để lan tỏa các giá trị nhân văn, mô hình sinh viên sống đẹp, thành tích tiêu biểu; sinh viên sống có trách nhiệm với cộng đồng. Vừa là giải pháp giáo dục, vừa mang tính truyền thông và xã hội hoá. Từ đó hình thành các chuẩn mực ứng xử văn minh và tạo lập hệ giá trị tốt đẹp cho sinh viên.
Bốn là, Gắn kết giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội trong việc phát triển nguồn lực nhân văn
Phát huy nguồn lực nhân văn trong sinh viên, không chỉ là hoạt động đơn tuyến của nhà trường mà là sự kết hợp của tam giác hệ thống chặt chẽ giữa nhà trường - gia đình - xã hội. Mỗi một môi trường giữ một vai trò đặc thù nhưng trong sự liên kết này đều có tính bổ trợ và tương tác lẫn nhau vì mục tiêu hình thành nhân cách tốt đẹp, lý tưởng sống và giá trị nhân văn cho sinh viên.
Nhà trường - nơi cung cấp kiến thức, phát triển kỹ năng và định hướng tư tưởng, hành động. Và không thể thay thế gia đình - là nơi định hình nền tảng đạo đức, nhân cách cho sinh viên. Trong quá trình đó, xã hội - là cộng đồng, là tập thể; các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp, nhà tuyển dụng và cả nền tảng văn hoá xung quanh sinh viên, tạo nên không gian thực tế để sinh viên rèn luyện, trải nghiệm và tích luỹ kinh nghiệm, thể hiện trách nhiệm của bản thân với gia đình, nhà trường và cộng đồng và chuyển tiếp các giá trị nhân văn vào đời sống xã hội.
Do vậy, việc thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa ba môi trường là yêu cầu mang tính chiến lược. Gia đình cần chủ động kết nối với nhà trường, đồng hành trong giáo dục cảm xúc, ứng xử, định hướng nghề nghiệp và lý tưởng sống. Xã hội cần chủ động mở rộng các chương trình thực tập, tình nguyện, khởi nghiệp cộng đồng, diễn đàn thanh niên và mô hình giáo dục không gian mở, tạo điều kiện để sinh viên va chạm thực tế và thể hiện giá trị cá nhân trong bối cảnh xã hội đa dạng.
Đảng ta khẳng định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”(15). Điều này thể hiện tầm nhìn, chỉ dẫn về phương pháp luận cho mọi cấp, ngành trong tổ chức và điều phối các lực lượng xã hội cùng tham gia vào quá trình giáo dục thế hệ trẻ, trong đó có sinh viên.
Sinh viên - với vai trò là trung tâm trong chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao - cần được nhìn nhận như chủ thể sáng tạo, đồng thời là mắt xích kết nối giữa các giá trị truyền thống và hiện đại. Vì vậy, công cuộc phát huy nguồn lực nhân văn trong sinh viên phải được xem là trách nhiệm chung của toàn xã hội, không giới hạn trong khuôn viên trường học, mà phải trở thành một phong trào văn hóa – chính trị – giáo dục rộng khắp.
Năm là, Nghiên cứu và ban hành các chính sách hỗ trợ phát triển toàn diện cho sinh viên
Việc phát huy nguồn lực nhân văn trong sinh viên không thể tách rời các chính sách phát triển thanh niên và sinh viên của Đảng, Nhà nước. Việc hỗ trợ, phát triển toàn diện cho sinh viên sẽ tạo xung lực về tính tích cực chính trị - xã hội cho sinh viên, nhất là học tập, nghiên cứu khoa học, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Gắn kết chặt chẽ với việc đổi mới tư duy, tinh thần phụng sự Tổ quốc và cộng đồng; giữa sinh viên với nhà trường; sinh viên với doanh nghiệp, nhà tuyển dụng.
Đồng thời, cần chú trọng đến các chính sách học bổng, tín dụng ưu đãi, hỗ trợ chi phí học tập cho sinh viên nghèo vượt khó, sinh viên dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa - những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương và thường gặp nhiều rào cản trong việc tiếp cận cơ hội phát triển. Việc đảm bảo công bằng trong giáo dục không chỉ là một nguyên tắc nhân đạo, mà còn là yếu tố nền tảng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có đạo đức, tri thức và tinh thần công dân.
Mặt khác, cần lồng ghép các chương trình phát triển nguồn nhân lực trẻ vào trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia và địa phương. Điều này phù hợp với định hướng của Đảng ta trong việc xây dựng con người Việt Nam mới - “vừa có tài, vừa có đức”, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số hiện nay.
Tóm lại, Sinh viên là lực lượng trẻ, năng động, có khả năng tiếp cận nhanh với tri thức và khoa học công nghệ, đồng thời là chủ thể tiếp nhận, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống nhân văn tốt đẹp của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Dưới góc tiếp cận chính trị - xã hội, việc phát huy nguồn lực nhân văn trong sinh viên không chỉ là vấn đề của giáo dục mà còn là nhiệm vụ của toàn xã hội, gắn liền với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Đây là quá trình đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, tổ chức đoàn thể và các chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm bảo đảm môi trường phát triển toàn diện cho thế hệ trẻ.
Đảng ta đã khẳng định rõ: “Lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững” (16). Do đó, giáo dục và phát triển nguồn lực nhân văn trong sinh viên chính là góp phần tạo ra nền tảng bền vững cho sự nghiệp đổi mới đất nước.
Để hiện thực hóa mục tiêu đó, cần tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục chính trị - tư tưởng, xây dựng môi trường giáo dục nhân văn, phát huy vai trò của tổ chức đoàn thể, tăng cường kết nối giữa nhà trường - gia đình - xã hội và ban hành chính sách hỗ trợ phát triển toàn diện sinh viên. Mỗi sinh viên cần tự ý thức về sứ mệnh và trách nhiệm của mình đối với cộng đồng, với dân tộc, để không ngừng hoàn thiện bản thân, góp phần làm rạng danh truyền thống văn hiến, anh hùng và nhân văn của dân tộc Việt Nam. Từ đó, việc phát huy tối đa nguồn lực nhân văn của sinh viên là yếu tố then chốt để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế./.
___________________________
(1) (6) (15) (16) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.47, 95, 115-116, 216.
(2) Trương Cộng Hoà, Nguyễn Thị Thuý Vân (2022), “Phát huy nguồn lực nhân văn trong phát triển đất nước”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 320 (9/2022), tr.50.
(3) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.30.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị TW9 khoá XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.48-49.
(5) Nguyễn Thị Lan Anh (2021), “Giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay”, Tạp chí Khoa học giáo dục Việt Nam, số đặc biệt (tháng 5), tr.55.
(6) Lê Anh Vũ (2024), “Nhận thức về trách nhiệm công dân của sinh viên Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục (4), tr.62.
(7) Lê Mạnh Hùng, Ngô Thanh Tùng (2024), “Thực trạng và giải pháp tăng cường vai trò của trường cao đẳng, đại học trong hệ sinh thái khởi nghiệp đối mới sáng tạo trong bối cảnh hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia nâng cao hiệu quả hoạt động khởi nghiệp của sinh viên, trường Đại học Mở Hà Nội, tr.417.
(8) Lê Văn Hảo (2016), “Phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên trong trường đại học đối với yêu cầu phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên”, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, tập 115, số 01, tr.57.
(9)Nguyễn Thị Thu Hoa (2025), “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị và sự cần thiết của việc nâng cao ý thức chính trị cho sinh viên hiện nay”, Tạp chí Tâm lý – Giáo dục, tập 31, số 04, tr.191.
(10) Nguyễn Thị Lan Anh (2021), “Giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay”, Tạp chí Khoa học giáo dục Việt Nam, số đặc biệt (tháng 5), tr.54.
(11) Nguyễn Thị Thu Huyền (2021, “Một số biện pháp giáo dục giá trị văn hoá truyền thống cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Tạp chí Khoa học giáo dục Việt Nam, số 44, tr.17-18.
(12) Nguyễn Thị Lan Anh (2021), Giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay, Tạp chí Khoa học giáo dục Việt Nam, số đặc biệt (5/2021), tr.55.
(13) Bộ Chính trị (2024), Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phát phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Hà Nội, tr.7.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2024), Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phát phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
4. Tô Lâm (2025), Học tập suốt đời, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/hoc-tap-suot-doi, truy cập ngày 05 tháng 4 năm 2025.
5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
6. Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội hiện nay
- Công tác quản lý đội ngũ viên chức của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh hiện nay
- Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Xem nhiều
-
1
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
2
[Video] Lễ diễu binh, diễu hành 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9
-
3
Thông điệp “Ý Đảng, Lòng Dân” trong các chương trình xây dựng Đảng trên truyền hình
-
4
[Video] Mạch Nguồn số 74: Người lính thời bình giữ vững trận địa tư tưởng
-
5
Không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy
-
6
Ứng dụng A.I có trách nhiệm trong lĩnh vực quan hệ công chúng
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Nội dung, phương thức và vai trò lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh trong thu hút đầu tư nước ngoài
Thu hút đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, giúp bổ sung nguồn vốn, chuyển giao công nghệ, tạo việc làm, nâng cao năng lực quản lý và mở rộng thị trường xuất khẩu… Lãnh đạo thu hút đầu tư nước ngoài giữ vai trò then chốt trong việc xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, minh bạch và ổn định. Trên cơ sở đó, định hướng chính sách, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện hạ tầng và thúc đẩy quan hệ đối ngoại. Đồng thời, lãnh đạo còn chủ động tiếp xúc nhà đầu tư, giải quyết vướng mắc, tạo niềm tin và khuyến khích hợp tác lâu dài. Trên tinh thần đó, bài viết làm rõ nội dung, phương thức và vai trò lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh trong thu hút đầu tư nước ngoài.
Phát huy nguồn lực nhân văn trong sinh viên dưới góc độ tiếp cận chính trị - xã hội
Phát huy nguồn lực nhân văn trong sinh viên dưới góc độ tiếp cận chính trị - xã hội
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc phát huy nguồn lực nhân văn trong sinh viên trở thành yêu cầu cấp thiết đối với giáo dục đại học tại Việt Nam. Sinh viên không chỉ là lực lượng lao động có tiềm năng trí tuệ cao, mà còn là chủ thể quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc phát huy nguồn lực này cần được đặt trong mối liên hệ với các yếu tố chính trị - xã hội, nhằm hình thành lớp trí thức mới toàn diện cả về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn và bản lĩnh chính trị. Bài viết tập trung làm rõ vị trí, vai trò, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phát huy nguồn lực nhân văn trong sinh viên hiện nay dưới góc độ tiếp cận chính trị - xã hội.
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội hiện nay
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội hiện nay
Thời gian qua, Ủy ban nhân dân (UBND) Thành phố Hà Nội đã thể hiện vai trò quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về văn hóa. Qua đó, góp phần định hướng, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tăng cường hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, góp phần vào sự nghiệp phát triển bền vững đất nước… Bài viết phác họa thực trạng công tác quản lý nhà nước về văn hóa của UBND Thành phố Hà Nội, chỉ rõ hạn chế, bất cập; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa của UBND Thành phố Hà Nội thời gian tới.
Công tác quản lý đội ngũ viên chức của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh hiện nay
Công tác quản lý đội ngũ viên chức của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh hiện nay
Quản lý đội ngũ viên chức của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo, nghiên cứu và phục vụ sự nghiệp xây dựng Đảng, phát triển đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn còn những bất cập, thách thức... Xuất phát từ thực tế trên, Ban Giám đốc Học viện đã có nhiều đổi mới và thu được những kết quả tích cực trong công tác này. Bài viết phân tích thực trạng quản lý đội ngũ viên chức của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, chỉ rõ một số hạn chế, bất cập, từ đó, làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quản lý đội ngũ viên chức của Học viện thời gian tới.
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tên của Tổng thống Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Tổng thống Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Tổng thống Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Bình luận