Quá trình nhận thức và lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng ta
1. Quán triệt quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nói đến tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, không thể không nói đến tư tưởng của Hồ Chí Minh. Cũng như các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh chưa dùng thuật ngữ nhà nước pháp quyền, nhưng những tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Người biểu hiện rất rõ trong lý luận, cũng như trong các chủ trương xây dựng nhà nước cách mạng ở nước ta. Khi cách mạng nước ta chưa giành được chính quyền, trong Bản yêu sách Tám điểm gửi Hội nghị Vécxây (đăng trên báo “Nhân đạo”, Pháp, năm 1919), Hồ Chí Minh đã nêu 8 yêu sách, với 2 đòi hỏi cơ bản: một là, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam; hai là, để bảo đảm quyền tự do, dân chủ ấy, đòi hỏi phải quản lý xã hội bằng các đạo luật, nhất là Hiến pháp. Đến “Việt Nam yêu cầu ca” năm 1922, tư tưởng này được thể hiện rõ hơn: “Bảy xin Hiến pháp ban hành, trăm điều phải có thần linh pháp quyền”(1). Đặc biệt, khi lãnh đạo nhân dân xây dựng nhà nước cách mạng, tư tưởng nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh biểu thị rất đậm nét. Đó là tư tưởng về xây dựng một nhà nước dân chủ, một chế độ dân chủ thực sự: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(2). “Chính phủ là chính phủ của nhân dân”(3), “Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”(4). Đó là một nhà nước chịu sự kiểm soát của nhân dân, “tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe và chịu sự kiểm soát của nhân dân” (Điều 6, Hiến pháp 1959). Trong quan hệ với nhân dân, Hồ Chí Minh khẳng định, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân”(5). “Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân”(6). Tư tưởng nhà nước pháp quyền còn biểu hiện trong quyết tâm xây dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp của Người ngay trong tình thế cách mạng đang “nghìn cân treo sợi tóc”. Chỉ một ngày sau khi đọc “Tuyên ngôn độc lập” trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ lâm thời xác lập nền tảng dân chủ và pháp quyền cho chế độ nhà nước cách mạng, đó là tổ chức Tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp dân chủ. Người nói: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống”(7).
Trong tình trạng khói lửa, đói kém của đất nước sau khi mới giành được chính quyền, trong tình thế chính quyền non trẻ đang phải đương đầu với “thù trong giặc ngoài”, với những nguy cơ đe doạ thực sự tới sự tồn vong của mình, đề nghị đó của Hồ Chí Minh đã làm nhiều người cách mạng lo lắng. Nhưng với quyết tâm sắt đá về xây dựng nhà nước cách mạng hợp hiến, hợp pháp, với lòng tin tuyệt đối vào lực lượng cách mạng, vào quần chúng nhân dân của Hồ Chí Minh, một nhà nước dân chủ cộng hoà có tính chất pháp lý, có cơ sở pháp lý vững chắc đã được xác lập ở nước ta. Theo Hồ Chí Minh, khi Đảng ta đã trở thành một Đảng cầm quyền, lãnh đạo chính quyền Nhà nước quản lý đất nước và toàn bộ xã hội. Phần đông cán bộ, công chức Nhà nước là đảng viên. Do đó, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân chủ yếu thể hiện ở mối quan hệ giữa chính quyền và nhân dân thông qua pháp luật, chính sách, thông qua hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức Nhà nước. Đảng luôn luôn chăm lo xây dựng và củng cố chính quyền, đề phòng xu hướng lạm dụng quyền lực của bộ máy Nhà nước. Ngay từ những ngày đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện, làng phê phán các lỗi lầm cậy quyền, cậy thế và nhắc nhở cán bộ chính quyền phải là công bộc của dân. Trong bài báo Dân vận (ngày 15.10.1949), đề cập vấn đề ai phụ trách dân vận, Người đặt lên hàng đầu: “Tất cả cán bộ chính quyền đều phải phụ trách dân vận”.
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng lãnh đạo chính quyền quản lý, phát triển xã hội, điều quan trọng nhất là các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân, đảm bảo sự hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, thống nhất giữa quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Mặt trận và các đoàn thể nước ta đóng vai trò đại diện cho lợi ích chung và lợi ích của các giai tầng trong xã hội; đồng thời, là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ”(8).
2. Quá trình nhận thức và lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của Đảng ta
Các văn kiện của Đảng ta trước thời kỳ đổi mới cũng chưa sử dụng đến thuật ngữ nhà nước pháp quyền. Nhưng trên thực tế trong nội dung Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 đã chứa đựng những đặc trưng, những giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền. Đó chính là kết quả của việc vận dụng tư tưởng về nhà nước kiểu mới theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong Văn kiện Đại hội VI, quan điểm, chủ trương đổi mới nhà nước, đã khẳng định một số nội dung nhà nước pháp quyền. Đó là sự khẳng định “quản lý nhà nước bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý”(9), phải quan tâm xây dựng pháp luật. Từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để bảo đảm cho bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật(10). Đó là những “tín hiệu” đầu tiên khiến các nhà chính trị, các nhà nghiên cứu lý luận lập trung vào nghiên cứu nhà nước pháp quyền. Đến Đại hội VII, trong quan điểm đổi mới nhà nước được bổ sung thêm nội dung: “nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”(11). Như vậy, qua hai kỳ Đại hội của thời kỳ đổi mới, tư duy về đổi mới nhà nước theo hướng xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền của Đảng có những bước tiến quan trọng. Tuy nhiên, chỉ đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994) chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới được chính thức khẳng định. Thuật ngữ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên được sử dụng trong văn kiện của Đảng.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là việc làm mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm. Vì vậy cần thận trọng trong quyết định, cũng như tiến hành thực hiện. Trong Văn kiện Đại hội VIII (1996) Đảng coi xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như một trong năm quan điểm cần quán triệt trong việc tiếp tục cải cách, đổi mới nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đến Đại hội IX, qua tổng kết những thành tựu nghiên cứu lý luận, cũng như thực tiễn từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền, Đảng đã coi “xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng”(12) là một nhiệm vụ có tính chiến lược và xuyên suốt, trong “đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”(13). Văn kiện Đại hội X tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng không những tiếp tục khẳng định chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền, mà còn ghi nhận: “có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”(14), là một đặc trưng mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng.
Sau một số năm cải cách, đổi mới nhà nước “việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên”(15). Nhưng so với yêu cầu việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vẫn còn là nhiệm vụ phức tạp và khó khăn đang đặt ra trước chúng ta. Đảng ta nhấn mạnh: “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước”(16). Vì vậy, cần “tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo”(17).
Khẳng định xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình nhà nước pháp quyền là một bước đột phá trong tư duy và xây dựng nhà nước trong thời kỳ đổi mới của Đảng ta. Đó là cơ sở chính trị cho việc tiếp tục đẩy mạnh việc nghiên cứu về nhà nước pháp quyền và thúc đẩy việc đổi mới một cách căn bản, có hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Tuy vậy, cả về lý luận và trong thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải tiếp tục nỗ lực cao.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới được tiến hành trên cơ sở đổi mới căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước trước đổi mới. Hiện nay, đất nước ta đã và đang tiến hành những bước cơ bản: 1) sửa đổi và tăng cường công tác xây dựng pháp luật đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; 2) đổi mới căn bản thiết chế tổ chức và cơ chế hoạt động của Nhà nước, sao cho toàn bộ tổ chức và hoạt động của nó dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, đồng thời thực hiện quản lý điều hành xã hội bằng pháp luật; 3) xây dựng các thiết chế cơ chế bảo đảm sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tiến hành những bước đổi mới căn bản đó vừa đáp ứng đòi hỏi của nhà nước pháp quyền, vừa giải quyết được những vấn đề bức xúc; khắc phục tình trạng chủ quan, tuỳ tiện trong tổ chức và hoạt động, cũng như tình trạng chồng chéo, vừa bỏ sót chức năng nhiệm vụ của các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước.
Một vấn đề phức tạp nữa trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là giải quyết quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Điều khác nhau căn bản với nhà nước pháp quyền tư sản là nhà nước pháp quyền ở nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng ta lãnh đạo Nhà nước không có mục đích nào khác đem lại quyền dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân. Nhưng lãnh đạo như thế nào để đạt được mục đích đó là một bài toán không dễ, như thực tiễn trong gần 30 năm đổi mới đã chỉ ra.
Không đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng thì quyền lực Nhà nước sẽ bị biến dạng, biến chất. Nhưng nếu Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cách áp đặt, bao biện, làm thay công việc Nhà nước, quyền lực của nhân dân rất dễ rơi vào tình trạng hình thức, Nhà nước sẽ trở nên thụ động, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Đó là, chưa nói bản thân chức năng lãnh đạo của Đảng cũng sẽ bị giảm sút và kém hiệu quả. Hay nói cách khác sẽ làm suy yếu cả sự lãnh đạo của Đảng, lẫn hiệu lực quản lý của nhà nước.
Do đó, để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước một cách hiệu quả, Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo của mình, trên cơ sở giải quyết đúng đắn quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, phân định một cách khoa học, rõ ràng chức năng của Đảng và Nhà nước. Đây là vấn đề không đơn giản về cả lý luận, lẫn thực tiễn. Bước vào thời kỳ đổi mới, tại Đại hội lần thứ VI Đảng đã đặt ra nhiệm vụ đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Sau 30 năm đổi mới chúng ta đã đạt được một số kết quả trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tuy nhiên, Đảng ta vẫn thẳng thắn thừa nhận: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới”(18). Vì vậy, nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước vẫn được tiếp tục đặt ra. Nói về nhiệm vụ đó, Đảng ta nhấn mạnh: “Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước trong từng lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và từng cấp, từng loại hình tổ chức nhà nước”(19); “Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước”(20).
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục làm rõ nhiều nội dung quan trọng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn… giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ…”; “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(21); “Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền”(22); “Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành…”(23); “Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm ra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội”(24)... Đây là những nội dung có tính đặc trưng cơ bản; nguyên tắc bao trùm nhất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và từ thực tiễn chúng ta có thể khái quát một số đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà nhân dân ta đang xây dựng:
Một là, đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ba là, Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bốn là, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Mặt khác, bên cạnh việc nhận thức rõ tính cách mạng, khoa học về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong quá trình thực hiện phải luôn quán triệt tinh thần đấu tranh khắc phục những hạn chế và sự chống phá của các thế lực thù địch. Các thế lực thù địch với nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, ở nhiều mặt, nổi bật nhất là chống phá quan điểm về quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ... hòng làm lạc hướng nhận thức trong xã hội,phá hoại cách mạng nước ta.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình lâu dài. Với quyết tâm chính trị cao của Đảng, trong những năm qua, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã có những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng cũng nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tìm kiếm, thử nghiệm. Để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện mô hình cụ thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chủ động xây dựng và kiến tạo các điều kiện thuận lợi để các giá trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hình thành và phát triển mạnh mẽ. Quyết tâm thực hiện các cơ chế mở rộng dân chủ, đặc biệt là yêu cầu công khai, minh bạch và quyền được thông tin để người dân thực sự được sống, được tham gia vào đời sống chính trị, được biết và cho ý kiến về những quyết sách có liên quan. Có các cơ chế thúc đẩy kinh tế - xã hội, văn hóa phát triển, vì đời sống vật chất, tinh thần của người dân có thực sự được cải thiện theo hướng đầy đủ và văn minh thì ý thức, niềm tin, thái độ và hành động của họ mới tốt lên được.
Thứ hai, tiếp tục giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước một cách có hiệu quả, Đảng phải tự đổi mới phương thức lãnh đạo của mình trên cơ sở giải quyết đúng đắn quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, phân định một cách khoa học vai trò chức năng của Đảng và Nhà nước,...
Thứ ba, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả ba lĩnh vực: xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại với tính công khai, minh bạch cao, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là công việc mới mẻ, cần phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo rất lớn của Đảng, tuyệt đối không thể rập khuôn theo các giá trị và mô hình xây dựng của nước ngoài với các mô hình và thể chế chính trị khác. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải bảo đảm nguyên lý của mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền. Để tiến nhanh cùng với xu thế phát triển của xã hội hiện đại, sự cầm quyền của Đảng trong quan hệ với xây dựng nhà nước pháp quyền cần không ngừng được đổi mới, quyền lực chính trị của Đảng gắn liền với quyền lực nhà nước và quyền lực của nhân dân./.
______________________________
(1) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. CTQG, T.1, tr.473.
(2), (8) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.6, tr.232, 397.
(3) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.7, tr.350.
(4), (7) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.4, tr.21, 7.
(5), (6) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.9, tr.382, 90.
(9), (10) Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, tr.120, 121.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb. Sự thật, tr.20.
(12), (13) Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, tr.131.
(14), (19) Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, tr.146, 138.
(15), (16), (17), (18), (20) Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, tr.159, 171, 246, 175, 264.
(21), (22), (23), (24) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, tr.175, 176.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 01.2021
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận