Sự biến đổi tâm lý của người nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
1. Có thể nói rằng, nền kinh tế tiểu thủ công đã tồn tại hàng ngàn năm ở Việt Nam cùng với chế độ phong kiến, chế độ thuộc địa nửa phong kiến và văn hoá làng xã đã góp phần tạo nên đặc điểm tâm lý đa dạng, phong phú và phức tạp của người nông dân.
- Thứ nhất, yêu quê hương đất nước, gắn bó với quê cha đất tổ là một trong những đặc điểm nổi bật của người nông dân Việt Nam. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, người nông dân phải cày cấy, vừa phải chống chọi với thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm; dù hoàn cảnh nào họ vẫn bám trụ quê cha đất tổ với tinh thần "một tấc không đi một ly không rời". Đối với nông dân, quê cha đất tổ là "thánh địa linh thiêng"; vì vậy hàng năm cứ đến ngày mồng mười tháng ba là tất cả mọi người đều thắp nén nhang hướng về Châu Phong để giỗ tổ vua Hùng.
- Thứ hai, đoàn kết gắn bó cộng đồng, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, tình nghĩa thuỷ chung đã trở thành lẽ sống của người nông dân. Chính vì vậy cày cấy hàng ngày và sinh hoạt trong làng, xã đã làm cho cuộc sống của người nông dân "tối lửa tắt đèn có nhau", cùng chia sẻ ngọt bùi đắng cay... Điều đó, được thể hiện không chỉ trong hoạt động hàng ngày, mà còn được khái quát trong ca dao tục ngữ: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước thì thương nhau cùng", "Một cây làm chẳng lên non, ba cây chụm lại lên hòn núi cao", "Lá lành đùm lá rách"...
- Thứ ba, Việt Nam nằm ở giữa hai đầu mối giao lưu văn hoá "Bắc - Nam" và "Đông - Tây"; nên người Việt Nam xưa nay có điều kiện giao lưu học hỏi, tiếp thu và cải tiến cái hay cái đẹp của người để biến chúng thành cái riêng của mình. Chính điều đó đã góp phần làm nên cái thông minh, sáng tạo và lạc quan yêu đời. Chính là những câu chuyện về những ông Trạng Việt Nam (Trạng Quỳnh, Trạng Lợn...) và những câu tục ngữ ca dao như: "chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo"... đã là chứng minh sinh động cho điều khẳng định đó.
- Thứ tư, tư duy manh mún, tản mạn là một biểu hiện tâm lý nổi bật nông dân sống khép kín sau luỹ tre làng; canh tác trên mảnh đất bạc màu, những thửa ruộng nhỏ, lẻ với công cụ thô sơ "Con trâu đi trước cái cày theo sau" dựa trên những thói quen, tập quán nhiều đời... Chính hoàn cảnh đó đã làm nảy sinh và nuôi dưỡng tư duy manh mún, tản mạn (thiếu khả năng khái quát tổng hợp) của người nông dân. Chính vì vậy mà họ "chỉ thấy lợi trước mắt, không thấy lợi lâu dài, chỉ thấy lợi ích cá nhân, không thấy lợi ích tập thể..."(1).
- Thứ năm, thói "lười biếng" suy nghĩ, tính toán, tính ỷ lại và bảo thủ, sự sùng bái kinh nghiệm và "coi thường" lớp trẻ là sản phẩm lâu dài của nền kinh tế tiểu nông mà dù muốn hay không người nông dân vẫn tiêm nhiễm. Trong nền kinh tế tiểu nông, "Lão nông tri điền", "sống lâu lên lão làng", "Đất lề quê thói", "Phép vua thua lệ làng", đã trở thành thói quen ứng xử phổ biến. Hơn nữa, sống trong chế độ phong kiến dưới sự thống trị của chế độ đẳng cấp, tôn ti, trật tự Nho giáo, người nông dân coi lớp trẻ như là loại "Trứng khôn hơn vịt", "Khôn ba năm dại một giờ"... Trong khi nói về những điều cần khắc phục trong tâm lý nông dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "... nông dân thường có tính thủ cựu, rời rạc, tư hữu..."(2).
- Thứ sáu, thiếu ý thức kỷ luật lao động và "thừa" tính đố kỵ, ganh ghét, cục bộ, bản vị, địa phương cũng là một đặc điểm tâm lý nổi bật của nông dân. Người nông dân (tư hữu nhỏ) sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên "nắng mưa bất thường" và "tuỳ hứng" cá nhân đã trở thành thói quen phổ biến ở làng xã Việt Nam. Bị quy định bởi tư hữu nhỏ, bởi trình độ nhận thức và điều kiện kinh tế - xã hội, người nông dân tuy cần cù, thông minh nhưng thiếu tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ, bộc lộ tính đố kỵ, ganh ghét cục bộ "Đèn nhà ai nấy rạng", "Ta về ta tắm áo ta", "Trâu buộc ghét trâu ăn"...
- Thứ bảy, sống dựa trên nền kinh tế tiểu nông nghèo nàn lạc hậu, dưới chế độ phong kiến và thuộc địa nửa phong kiến hà khắc, người nông dân còn phải hứng chịu những tệ nạn xã hội; mê tín dị đoan, cờ bạc, rượu chè, lãng phí... Nhận ra những thói hư, tật xấu đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu: "... Đồng bào và cán bộ phải đánh lui tư tưởng bảo thủ".
“Thực hành tiết kiệm phải đi đôi với tăng gia sản xuất. Chúng ta phải chống lãng phí sức của, sức ngân sách. Không nên vì được mùa ăn xài bừa bãi, lãng phí sức của. Không nên chơi bời lêu lổng, như đi chơi một phiên chợ mất 3 ngày, lãng phí sức người"(3). Và nhất là "... phải chấm dứt những tệ nạn xấu xa do xã hội cũ để lại, như lười biếng, cờ bạc, tệ nấu rượu lậu, buôn bán gian lận, tiêu xài xa xỉ, gạ bán cưỡng ép..."(4).
Những điều trình bày ở trên chưa phải là tất cả, nhưng đó là những đặc điểm tâm lý rất quan trọng của người nông dân sống trong nền kinh tế tiểu nông (nghèo nàn, lạc hậu), dưới chế độ phong kiến và thuộc địa nửa phong kiến hà khắc.
2. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với cơ chế hành chính bao cấp, dựa trên hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể làm nảy sinh và phát triển tinh thần tập thể, ý thức trách nhiệm, tính tổ chức kỷ luật của người nông dân, nhưng chính nó đã tạo điều kiện phát triển tâm lý: "Bình quân", "cá mè một lứa", thụ động, dựa dẫm, ỷ lại vào cấp trên... Trong điều kiện hợp tác xã nông nghiệp làm ăn kém hiệu quả, đời sống thấp thì ở người nông dân nảy sinh tâm lý chán chường và "thờ ơ" với công việc.
3. Trong thời kỳ đổi mới, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên sự đa dạng về sở hữu và khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế. Nông nghiệp từ tự cấp, tự túc chuyển sang sản xuất hàng hoá. Nhờ có chính sách tích cực này đã tạo được niềm tin, kích thích tính tích cực sáng tạo của người lao động, nên nền kinh tế nước ta (trong đó có nông nghiệp) đã bước vào thời kỳ phát triển mới và đạt được những thành tựu to lớn (trong nhiều năm nền kinh tế luôn tăng trưởng cao đứng hàng thứ hai trong khu vực, xếp thứ hai về xuất khẩu gạo, nằm trong 10 nước xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất"(5). Cùng với sự phát triển nhanh về kinh tế, việc sản xuất xoá đói giảm nghèo đã đạt được những thành tựu khả quan (tỷ lệ người nghèo đã giảm từ 57% năm 1992 xuống còn dưới 30% vào năm 2004 (tính theo tiêu chuẩn quốc tế). Theo báo cáo phát triển con người năm 2003 của Liên Hiệp quốc, Việt Nam xếp thứ 39 trong số 94 nước đang phát triển về chỉ số nghèo khổ tổng hợp (HPI); xếp thứ 109 trong số 175 nước về chỉ số phát triển con người (HDI) và thứ 98 trong số 144 nước về chỉ số phát triển giới(6), đời sống của nhân dân ngày một nâng cao.
Có thể nói, chính sách đổi mới toàn diện đất nước đã làm cho xã hội ta phát triển ổn định và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu văn hoá. Chính hiện thực sống động đó đã làm biến đổi tâm lý của người nông dân theo hướng tích cực, người lao động đang hình thành một phong cách lao động mới. Trí tuệ của từng người được phát huy, kích thích khả năng sáng tạo, năng động của mọi người, biết cân nhắc hiệu quả sản xuất, kinh doanh một cách khoa học, hình thành một trạng thái tâm lý mới của người lao động trong thời đại công nghiệp. ở đây, niềm tin vào chế độ, tính tích cực lao động, ý thức về trách nhiệm công dân ngày càng tăng rõ rệt trong công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
4. Hiện nay, công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn được thực hiện trong điều kiện kinh tế thị trường và với "áp lực" ngày càng gia tăng của toàn cầu hoá. Hơn nữa, có một thực tế là hiện nay nước ta vẫn còn là nước nông nghiệp nghèo (dưới 30% dân số nghèo, trong đó đa số là nông dân; 26% trẻ em suy dinh dưỡng; mới có 16% dân số được bảo hiểm y tế; 53% dân số được dùng nước sạch và hơn 15% lao động được đào tạo lành nghề(7). ở nông thôn thì ruộng đất manh mún, môi trường sinh thái ngày càng suy giảm, giá cả nông sản không ổn định, thu nhập và đời sống nông dân thấp và tăng rất chậm so với thành thị, tình trạng thiếu đất, thiếu việc làm ngày càng nhiều... Chính hiện trạng này đã và đang là "áp lực", thách thức lớn "đè nặng" lên tâm lý người nông dân.
- Thứ nhất, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng thu hẹp tỷ trọng sản xuất nông nghiệp và nâng cao tỷ trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
Trong khi đó, người nông dân lại thiếu đất, thiếu vốn, trình độ học vấn thấp, không có ngành nghề... Vì vậy, nhiều nơi người nông dân phải rời bỏ quê hương đi kiếm sống; hiện tượng di dân tự do từ nông thôn "ồ ạt" ra thành phố trong những năm qua chứng minh cho điều đó (hiện nay, Hà Nội có khoảng 500 ngàn và thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 1,5 triệu dân tự do, không có hộ khẩu). Ra thành phố, nhiều người không kiếm được việc làm, một số phải đi làm thuê bằng đủ các nghề, thậm chí có số trở thành tội phạm và sa vào tệ nạn xã hội. Chính trong bối cảnh này ở người nông dân dễ nảy sinh tâm lý làm thuê, tâm lý chán chường, bất mãn...
- Thứ hai, đa số sinh viên xuất thân từ nông dân, tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng không muốn về quê công tác. Họ "bám trụ" ở thành phố để kiếm tiền với bất cứ nghề gì (dọn phòng, bưng bê ở nhà hàng, bốc vác ở kho bãi...). ở đây, tâm lý "kiếm tiền", đua đòi, thích cuộc sống xa hoa đã lộ ra khá rõ.
- Thứ ba, do "áp lực" lớn của công nghiệp hoá và đô thị hoá, ở vùng ven đô (điển hình là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ...), trong đó thời gian rất ngắn một bộ phận lớn nông dân "nghiễm nhiên" đã trở thành thị dân, mặc dù họ không được chuẩn bị về mặt tâm lý, học vấn, văn hoá. Họ có một số tiền lớn (do được đền bù giải toả, do bán đất...) nhưng không biết làm gì. Một số sử dụng tiền vào kinh doanh, một số dùng tiền mua sắm xe cộ, ăn chơi (cờ bạc, đánh đề, cá cược...). ở đây, đã hình thành lối sống "xài sang", "hợm hĩnh" và cuối cùng lại "trắng tay" rơi vào thất nghiệp.
- Thứ tư, nông dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng rừng núi do hoàn cảnh sống khó khăn, ít được hưởng phúc lợi xã hội, làm ăn thua lỗ, chán chường với cuộc sống và tìm đến với các "trò" mê tín dị đoan, tín ngưỡng tôn giáo mới (trường hợp ở Tây Nguyên, nhiều người bỏ tín ngưỡng, tôn giáo cũ gia nhập vào đạo Tin lành là ví dụ điển hình, dĩ nhiên là ở đây có sự xúi giục của một số kẻ xấu).
- Thứ năm, trong điều kiện tác động mạnh của các quy luật kinh tế thị trường (cạnh tranh, cung cầu, lợi nhuận, lợi nhuận tối đa); trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hoá (nhiều hàng hoá, chất lượng tốt, giá rẻ, nhiều văn hóa phẩm phương Tây tràn vào) thì một bộ phận dân cư trong đó có nông dân có tâm lý "sùng ngoại", có lối sống thực dụng, sùng bái đồng tiền, coi nhẹ các giá trị văn hoá truyền thống cũng là điều dễ hiểu.
Như vậy, công nghiệp hoá - hiện đại hoá (xét theo một nghĩa nhất định) là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp (mà ở nước ta là nền kinh tế tiểu nông) lên nền kinh tế công nghiệp. Dưới góc độ tâm lý, đó cũng là quá trình chuyển từ "tâm lý tiểu nông" lên "tâm lý nông nghiệp". Đó là cuộc cải biến mang tính khoa học và cách mạng trong đời sống tâm lý của người nông dân. Vì vậy, việc nghiên cứu văn hóa nông thôn, con người nông dân; việc đào tạo sử dụng nguồn nhân lực nông thôn đòi hỏi phải nắm được đặc điểm của bước chuyển tâm lý này mà chính sách, kế hoạch, biện pháp, bước đi thích hợp đối với nông nghiệp và nông thôn. Đó là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta./.
___________________
(1) Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, T.9, Nxb. CTQG, Hà Nội, tr.16.
(2) Hồ Chí Minh, Sđd, T.7, tr.213.
(3) Hồ Chí Minh, Sđd, T.10, tr.73.
(4) Hồ Chí Minh, Sđd, T.11, tr.151.
(5) Xem Tuổi trẻ Chủ nhật, số 33 - 03 (1041), tr.4.
(6) Xem Báo Tuổi trẻ, ngày 18.8.2003, tr.3.
(7) Xem Tuổi trẻ Chủ nhật, số 33 - 03 (1041), tr.4.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 5 (tháng 9+10)/2005
Bài liên quan
- Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - mục tiêu, quyết tâm của toàn Đảng và ý nguyện, khát vọng của người dân Việt Nam
- Phát huy bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh Việt Nam của Đại thắng mùa Xuân 1975 để lập nên những kỳ tích mới trong kỷ nguyên giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng, vươn mình của dân tộc
- Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - Chiến thắng của niềm tin, ý chí và khát vọng thống nhất đất nước của toàn dân tộc
- Ý chí Việt Nam từ Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đến vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một
Xem nhiều
-
1
Mạch Nguồn số 66: LỜI HIỆU TRIỆU MÙA XUÂN
-
2
Mạch Nguồn số 68: LAN TỎA PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC TẠI HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
-
3
Mạch Nguồn số 65: NHÌN LẠI 2024 "CHUYỆN LÀNG, CHUYỆN NƯỚC"
-
4
Quản trị khủng hoảng truyền thông của các doanh nghiệp tổ chức sự kiện ở Việt Nam hiện nay
-
5
Đổi mới phương pháp dạy và học các môn lý luận chính trị ở các trường đại học tại Việt Nam hiện nay
-
6
Du lịch tỉnh Tây Ninh vươn mình trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Bảo vệ quyền riêng tư trong sản phẩm truyền hình ở các nước trên thế giới - những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Trong bối cảnh truyền hình đa nền tảng phát triển nhanh chóng, việc bảo vệ quyền riêng tư cá nhân trong các sản phẩm báo truyền hình tại Việt Nam đang đặt ra nhiều thách thức, đặc biệt khi chưa có hướng dẫn cụ thể, đồng bộ và hiệu quả trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Trong khi đó, nhiều quốc gia như Anh, Đức, Nhật Bản hay Liên minh châu Âu đã xây dựng hệ thống quy định pháp lý và đạo đức báo chí chặt chẽ để bảo vệ quyền riêng tư, đồng thời cân bằng với quyền được thông tin của công chúng. Việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế là cần thiết để giúp Việt Nam nhận diện đầy đủ các nguyên tắc, quy trình và cơ chế giám sát hiệu quả nhằm phòng ngừa và xử lý các hành vi xâm phạm quyền riêng tư trên truyền hình. Từ đó, có thể rút ra những bài học thiết thực, phù hợp với điều kiện pháp lý và văn hóa truyền thông trong nước, góp phần hoàn thiện khung pháp luật, nâng cao đạo đức nghề nghiệp và tăng cường quyền con người trong lĩnh vực báo chí truyền hình.
Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - mục tiêu, quyết tâm của toàn Đảng và ý nguyện, khát vọng của người dân Việt Nam
Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - mục tiêu, quyết tâm của toàn Đảng và ý nguyện, khát vọng của người dân Việt Nam
Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đưa ra các luận điệu xuyên tạc, chống phá chủ trương của Đảng ta về việc đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Cần nhận diện rõ các luận điệu sai trái, thù địch đó; đồng thời, làm rõ nội dung liên quan, nhằm nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Phát huy bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh Việt Nam của Đại thắng mùa Xuân 1975 để lập nên những kỳ tích mới trong kỷ nguyên giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng, vươn mình của dân tộc
Phát huy bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh Việt Nam của Đại thắng mùa Xuân 1975 để lập nên những kỳ tích mới trong kỷ nguyên giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng, vươn mình của dân tộc
Sáng ngày 30-4-2025, tại Thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 - 30-4-2025). Tổng Bí thư Tô Lâm đọc diễn văn lễ kỷ niệm. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu toàn văn diễn văn:
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - Chiến thắng của niềm tin, ý chí và khát vọng thống nhất đất nước của toàn dân tộc
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - Chiến thắng của niềm tin, ý chí và khát vọng thống nhất đất nước của toàn dân tộc
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là một trong những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là biểu tượng của niềm tin, ý chí kiên cường và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Tinh thần đó cần tiếp tục được phát huy trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc để xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, sánh vai các cường quốc năm châu.
Ý chí Việt Nam từ Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đến vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Ý chí Việt Nam từ Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đến vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đánh dấu mốc son chói lọi trong lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam, là minh chứng cho sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sự ủng hộ của quốc tế. Thắng lợi này đã củng cố thành quả của kỷ nguyên độc lập, tự do và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam do Đảng lãnh đạo; tiếp tục khẳng định hệ giá trị cho nhân loại về tính chính nghĩa của hòa bình, hữu nghị, hợp tác và vươn mình phát triển.
Bình luận