Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng đối với xây dựng Đảng về đạo đức
Qua mỗi kỳ cách mạng, trên cơ sở tổng kết, đánh giá việc thực hiện công tác xây dựng Đảng về đạo đức, gắn với những điều kiện thực tiễn, Đảng ta luôn có sự bổ sung, phát triển đối với công tác xây dựng Đảng về đạo đức bảo đảm cho Đảng ta thật sự “là đạo đức, là văn minh”.
Sự phát triển đó được thể hiện ở các nội dung sau:
Thứ nhất, giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Ngay từ khi tuyên truyền, vận động thành lập Đảng, trong tác phẩm: “Đường Cách mệnh” (1927), tư cách của người cách mạng đã được Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu. Với việc nêu ra 26 tiêu chí về tư cách một người cách mệnh, vấn đề tư cách đạo đức của một người cách mạng được xác định cụ thể trong từng mối quan hệ, tự mình phải: “Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật”(1); “Đối người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người”(2). Và với việc: “Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể”(3).
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, từ đây vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức càng trở nên bức thiết. Trong thư gửi Ủy ban nhân dân các cấp ngày 17/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những lỗi lầm mà một số cán bộ, công chức đã phạm phải, như: Trái phép, Cậy thế, Hủ hóa, Tư túng, Chia rẽ, Kiêu ngạo, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Chính phủ và niềm tin của nhân dân. Năm 1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, trong đó Người chỉ rõ về Tư cách và đạo đức cách mạng, trước hết nhấn mạnh Tư cách của Đảng chân chính cách mạng với 12 điều. Nội dung đạo đức cách mạng được Người phân tích sâu sắc trong năm điều: NHÂN, NGHĨA, TRÍ, DŨNG, LIÊM. Khi đề cập đến vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng: “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”(4), “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(5). Đặc biệt, năm 1960, tại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự hào khẳng định: “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại!”(6). Đảng ta vĩ đại bởi vì: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh, Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no. Công ơn Đảng thật là to, Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng”(7). Trong bản Di chúc lịch sử, Di sản cuối cùng của Người để lại vấn đề đạo đức cách mạng được nhắc đến như một điểm nhấn trong công tác xây dựng Đảng. Người căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(8).
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta hoàn toàn độc lập, non sông thu về một mối. Nghi quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) trên cơ sở tổng kết công tác xây dựng Đảng đã rút ra phương châm xây dựng Đảng là: “phải xây dựng Đảng vững mạnh về cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức”(9). Đồng thời nhấn mạnh: “mỗi cán bộ, đảng viên phải chân thành và cởi mở, thương yêu và tôn trọng lẫn nhau hết long giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ”(10).
Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng bộc lộ một số yếu kém, như sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên diễn biến ngày càng nghiêm trọng hơn, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đã ban hành Nghị quyết số 10 - NQ/TW, ngày 2/2/1999, “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Đảng ta thẳng thắn nhìn nhận: “công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”(11). Từ đó, Đảng ta ban hành các nghị quyết, kết luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong đó có đề cập đến vấn đề xây dựng đạo đức trong Đảng. Như vậy, có thể thấy vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức đã được Đảng đề cập đến xong chưa được tách thành nội dung riêng biệt.
Cụm từ “Xây dựng Đảng về đạo đức” chính thức được đưa vào Nghị quyết Đại hội XII của Đảng: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”(12). Như vậy, đây là lần đầu tiên Đảng ta đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức ngang hàng với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Bởi vì, có làm tốt công tác xây dựng Đảng về đạo đức thì xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức mới có thể thành công.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, công tác xây dựng Đảng về đạo đức đã có những chuyển biến tích cực và đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên công tác xây dựng Đảng về đạo đức vẫn còn có những hạn chế: “Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, một số suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”(13). Đây là một trong những thách thức lớn gây mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, ảnh hưởng trực tiếp tới vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Đại hội XIII của Đảng, công tác xây dựng Đảng về đạo đức được khẳng định là một trong 5 mặt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đồng thời nhấn mạnh tập trung xây dựng Đảng về đạo đức: “Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thử thách và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng về đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu rộng trong đảng và ngoài xã hội”(14). Như vậy đến Đại hội XIII, công tác xây dựng Đảng về đạo đức được đề cập thành một mục riêng và được đặt trước công tác xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ với những nhiệm vụ và giải pháp rất cụ thể. Trong đó nhấn mạnh việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng.
Thứ hai, công tác xây dựng Đảng về đạo đức có mục tiêu rõ hơn với nhiệm vụ cụ thể gắn với thực tiễn
Xây dựng Đảng về đạo đức không chỉ là phương châm, nhiệm vụ mà còn là giải pháp hữu hiệu trong việc khắc phục tình trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong Đảng. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có nhiều nguyên nhân, song, trong đó có vấn đề chưa quan tâm đúng mức đến xây dựng Đảng về đạo đức chưa xác định được mục tiêu cụ thể của công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
Mặc dù trong Văn kiện Đại hội XII, xây dựng Đảng về đạo đức được xác định là một mặt trong các mặt của công tác xây dựng Đảng, song chủ trương xây dựng Đảng về đạo đức vẫn đặt trong mục tiêu tổng thể xây dựng Đảng với nội dung tập trung thực hiện mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh vể chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Như vậy, mục tiêu xây dựng Đảng về đạo đức cũng chưa được xác định rõ mà chỉ tập trung đến việc nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng.
Đến Đại hội XIII, Đảng ta đã chỉ rõ những hạn chế tồn tại trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức với cái nhìn sâu sắc hơn gắn liền với điều kiện lịch sử trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, Đảng đã xác định rõ mục tiêu xây dựng Đảng về đạo đức chính là nhằm “Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ"(15). Với những giải pháp và nhiệm vụ cụ thể: “Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến chi bộ; cấp ủy cấp trên chủ động gợi ý kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân ở những nơi có những vấn đề phức tạp, có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; coi trọng kiểm tra việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm. Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc… Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng… Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thường xuyên tự soi, tự sửa. Kịp thời biểu dương những điểm hình tiên tiến, những tâm gương về đạo đức, lối sống; đấu tranh mạnh mẽ với các biểu hiện lệch lạc và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống”(16). Với mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể đó sẽ phải góp phần làm cho Đảng ta thật sự “là đạo đức”, “là văn minh” đáp ứng với yêu cầu của công tác xây dựng Đảng về đạo đức trong tình hình mới. Điều này thể hiện một tư duy mới trong xây dựng Đảng về đạo đức đồng thời còn thể hiện ý chí quyết tâm của Đảng ta trong đấu tranh với một hiện tượng đã trở nên khá phổ biến, được coi sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Thứ ba, nội dung, giải pháp đối với công tác xây dựng Đảng về đạo đức được bổ sung đầy đủ, toàn diện và đồng bộ hơn
Xây dựng Đảng về đạo đức xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, nhằm giải quyết vấn đề từ thực tiễn đặt ra. Từ sự thay đổi về môi trường xã hội tất yếu dẫn đến sự lạc hậu, kém hiệu quả của một số nội dung, phương pháp của công tác xây dựng Đảng về đạo đức. Thực tiễn này đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, xây dựng một cách đồng bộ những nội dung, phương pháp phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Kế thừa quan điểm các kỳ Đại hội Đảng trước đây đặc biệt là Đại hội XII, Công tác xây dựng Đảng về đạo đức tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, với nhiều nội dung, giải pháp mới toàn diện hơn, đầy đủ hơn. Đây được coi là một điểm nhấn trong sự phát triển tư duy lý luận đối với xây dựng Đảng về đạo đức trong nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Nói đến Đảng là nói đến tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Vì vậy, xây dựng Đảng về đạo đức là phải tập trung vào việc xây dựng đạo đức của mỗi tổ chức đảng cho đến từng đảng viên. Đồng thời, xây dựng Đảng về đạo đức còn là sự kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Nếu Đại hội XII của Đảng nêu 3 giải pháp để xây dựng Đảng về đạo đức: “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; … Kiên quyết đấu tranh chống quan lieu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân; … Xây dựng và thực hiện tốt các quy định về phát huy vai trò nêu gương trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên”(17). Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề cập và nhấn mạnh hầu hết tất cả các mặt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về đạo đức, với 6 giải pháp trọng tâm là: “Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình…; Coi trọng kiểm tra việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm. Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng… Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thường xuyên tự soi, tự sửa. Kịp thời biểu dương những điểm hình tiên tiến, những tâm gương về đạo đức, lối sống; đấu tranh mạnh mẽ với các biểu hiện lệch lạc và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống”(18).
Về nội dung tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, nếu Đại hội XII nhấn mạnh đến việc yêu cầu cán bộ, đảng viên phải học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, thì Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, nhấn mạnh tầm quan trọng và đặt lên hàng đầu vấn đề “Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên"(19). Bởi, xây dựng Đảng về đạo đức phải được bắt đầu từ việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho từng cán bộ, đảng viên của Đảng. Đạo đức của Đảng được xây dựng trên đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy, sự tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên là vô cùng quan trọng.
Đối với vấn đề nêu gương, cùng với việc đề cao thực hiện nghiêm quy định nêu gương, Đại hội XIII của Đảng đã làm rõ hơn đối tượng của quy định nêu gương với tinh thẩn “chức vụ càng cao càng phải gương mẫu"20) và nhấn mạnh “trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương"(21). Theo đó, đối tượng nêu gương trước hết không chỉ là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu mà còn là người có chức vụ trong các cơ quan, đơn vị; gắn kết chức vụ với thực hiện nêu gương, cùng chức vụ thì mức độ gương mẫu phải tương đương nhau, mức độ gương mẫu của cấp trên phải cao hơn cấp dưới. Đặc biệt, Đại hội XIII còn nhấn mạnh đến vấn đề tự giác và mục đích của việc nêu gương của đảng viên: “Đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng”(22). Bởi, trách nhiệm nêu gương có vai trò vô cùng quan trọng trong mọi mặt công tác của Đảng. Đảng viên là những người ưu tú nhất trong nhân dân, vì vậy, họ là người có sức ảnh hưởng rất lớn đến cơ quan, tổ chức và xã hội. Ở bất cứ đâu, thời kỳ nào, cán bộ, đảng viên tự giác nêu gương, thực hành đạo đức, nói đi đôi với làm đều có ảnh hưởng sâu sắc trong Đảng và được cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập, làm theo. Hiện nay, mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến các chuẩn mực, hành vi đạo đức; một bộ phận cán bộ, đảng viên còn có những biểu hiện tiêu cực, suy thoái về đạo đức, lối sống, chạy theo lối sống vật chất tầm thường, say mê hưởng thụ, xa rời đạo đức cách mạng. Trước tình trạng đó, việc đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là của người đứng đầu cơ quan, đơn vị về xây dựng đạo đức lại càng có tầm quan trọng đặc biệt.
Về cơ chế kiểm tra quy định nêu gương, Văn kiện Đại hội XIII đã có sự thay đổi, bổ sung thể hiện sự quan tâm của Đảng đối với vấn đề kiểm tra, giám sát khi nhấn mạnh cần: “Coi trọng kiểm tra, giám sát trong Đảng kết hợp với phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, mặt trận Tổ quốc, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện các quy định nêu gương"(23). Như vậy, so với Đại hội XII, Đảng đã lược bỏ thuật ngữ “kiểm soát” của tổ chức đảng, “phản biện xã hội” của Mặt trận Tổ quốc và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên thực hiện nêu gương; bổ sung thêm chủ thể giám sát thực hiện nêu gương là cơ quan dân cử và báo chí để nhấn mạnh cả hệ thống chính trị sẽ trở thành chủ thể trong công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nêu gương.
Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng đã đưa nội dung “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức cách mạng”(24) là một giải pháp mới để xây dựng Đảng về đạo đức. Các giá trị đạo đức và chuẩn mực đạo đức là tồn tại khách quan và luôn vận động, biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của xã hội. Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, quá trình hội nhập quốc tế, nhiều giá trị đạo đức xã hội đã có những thay đổi đáng kể. Vì vậy, Đảng ta đã rất sáng suốt, khi yêu cầu cần phải chủ động để nhận thức, xây dựng những giá trị, chuẩn mực đạo đức mới. Điều này sẽ tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên “tự soi”, “tự sửa” hằng ngày, nhận biết được tình trạng học tập, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng của chính bản thân thông qua nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng, từ đó có phương hướng, giải pháp khắc phục cái chưa được, phát huy cái đạt được trong thực hành đạo đức cách mạng. Đây là một điểm mới thể hiện sự phát triển tư duy lý luận xây dựng Đảng về đạo đức của Đảng, đưa lý luận xây dựng, chỉnh đốn Đảng phát triển lên một bước mới.
Nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cũng là một điểm mới trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng so với các kỳ Đại hội trước đó. Tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả người đứng đầu, có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, không đủ bản lĩnh để vượt qua những cám dỗ. Vì vậy, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình"(25). Cùng với đó, kỷ luật cán bộ, đảng viên là một trong những điểm mới trong xây dựng Đảng về đạo đức trong Văn kiện Đại hội XIII khi nhấn mạnh: “Kịp thời biểu dương những điển hình tiên tiến, những tấm gương sáng về đạo đức, lối sống” và “xử lý nghiêm những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống”(26).
Thứ tư, mối quan hệ giữa xây dựng Đảng về đạo đức với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ được thể hiện rõ hơn
Xây dựng Đảng về đạo đức thể hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Trong Văn kiện Đại hội XIII, khi đề cập phương hướng trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta xác định: “Trong những năm tới, phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ"(27). Đây là 5 mặt của công tác xây dựng Đảng, có quan hệ mật thiết, là tiền đề của nhau. Xây dựng Đảng về chính trị có tính chất bao trùm, chi phối xây dựng Đảng về tư tưởng, đạo đức và tổ chức. Xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức và đạo đức đều xuất phát từ xây dựng Đảng về chính trị và phục vụ nhiệm vụ chính trị. Trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức là “gốc” là “nền tảng”, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh; là cơ sở để xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Xây dựng Đảng về đạo đức góp phần hình thành văn hóa chính trị, văn hóa ứng xử trong Đảng. Nền tảng đạo đức giúp cho chính trị, nhất là quyền lực chính trị không bị tha hóa, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay. Nền tảng đạo đức cũng giúp người cán bộ, đảng viên dễ dàng tiếp nhận tư tưởng chính trị đúng đắn, hình thành niềm tin khoa học và tình cảm cách mạng. Đồng thời, xây dựng đảng về đạo đức giúp gắn kết các thành viên trong tổ chức, giữ cho tổ chức sự thống nhất ý chí và hành động trong sạch, vững mạnh. Qua thực hành đạo đức, thực hành dân chủ thực hành tự phê bình và phê bình, thường xuyên tiếp thu ý kiến đóng góp của người dân về xây dựng Đảng, thực hiện sự giám sát kiểm tra của nhân dân đối với các tổ chức vững mạnh toàn diện.
Như vậy, có thể khẳng định tư duy lý luận của Đảng đối với xây dựng Đảng về đạo đức được bổ sung, phát triển và hoàn thiện qua thực tiễn mỗi thời kỳ cách mạng thông qua văn kiện các kỳ Đại hội Đảng nhằm xây dựng Đảng ta thực sự là một Đảng cách mạng chân chính “phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(28) đáp ứng lòng mong mỏi và sự kỳ vọng, của mọi tầng lớp nhân dân./.
_______________________________________________________
(1), (2), (3) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., T.2, tr. 280, 281.
(4), (5),(28) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.5, tr. 292, 289.
(6), (7) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.12, tr. 400, 403-404.
(8) Hồ Chí Minh (2011), Sđd. T.15, tr. 622.
(9), (10) Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Chính trị quốc gia, H., T.37, tr. 967, 972 - 973.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., tr.1-2.
(12), (17) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., tr.202, 202.
(13) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., T.2, tr.178.
(14), (19), (20), (21) (22), (23), (24), (27) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H., t.1, tr.184, 183, 183, 183-184, 183, 184, 184, 180.
(15), (16), (18), (25), (26) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H., t.2, tr. 236, 237, 236 - 237, 237, 237.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử ngày 13/11/2023
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả nảy sinh, xâm nhập, lây lan trong đời sống chính trị, xã hội do nhiều nguyên nhân, trong đó, yếu tố chủ quan của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên là nguyên nhân trực tiếp, phổ biến.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận