Triết lý phát triển Hồ Chí Minh
Triết lý phát triển Hồ Chí Minh được hiểu là lý luận phát triển xã hội Việt Nam có tính triết học của Hồ Chí Minh. Triết lý đó phản ánh quan điểm cơ bản và cốt lõi về đường lối, chính sách của đất nước, về cuộc sống; chứa đựng các nguyên tắc về ứng xử, có vai trò định hướng cho hoạt động thực tiễn đa dạng của con người, nhằm thúc đẩy sự biến đổi của cách mạng, của xã hội từ ít đến nhiều, từ thấp đến cao, ngày càng tốt lên. Khi định danh cho triết lý Hồ Chí Minh là triết lý phát triển thì đặc trưng, tính chất phát triển ấy đã mang hàm nghĩa rộng, không chỉ là chính trị mà còn là kinh tế, xã hội, văn hóa - tất cả các phương diện cấu thành đời sống xã hội. Đó không chỉ là phát triển cá nhân mà còn là phát triển cộng đồng, là cách mạng giải phóng dân tộc đồng thời là cách mạng xã hội chủ nghĩa, là cải tạo và xây dựng, là đổi mới, hội nhập để phát triển. Triết lý phát triển Hồ Chí Minh gồm nhiều nội dung khác nhau, nhưng tập trung ở năm vấn đề chủ yếu sau:
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt triết lý phát triển Hồ Chí Minh
Trong quan điểm Hồ Chí Minh, để một đất nước có thể phát triển thì điều tiên quyết là đất nước đó phải được độc lập, nhân dân phải được sống trong hòa bình và trở thành người chủ xã hội. Bởi vậy, nhiệm vụ trọng đại trước hết Người đề ra cho cách mạng Việt Nam là giải phóng đất nước khỏi ách thống trị thực dân, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đó cũng chính là ham muốn tột bậc trong cuộc đời của Người: “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(1). Đó là giai đoạn đầu tiên trong tiến trình thực hiện mục tiêu vĩ đại của toàn bộ sự nghiệp cách mạng là: giải phóng dân tộc - giải phóng xã hội - giải phóng con người. Tất cả những nội dung đó thể hiện thành một hệ giá trị cơ bản, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc và cao đẹp: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Giá trị của độc lập còn được Hồ Chí Minh khái quát thành một chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(2). Đây chính là triết lý sống, triết lý hành động, phương châm ứng xử của Người. Nó được rút ra từ triết lý của một dân tộc có lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, từ thực tiễn đấu tranh hy sinh xương máu của bao thế hệ và thực tiễn hoạt động cách mạng “vào sinh ra tử”, “ẩn nấp nơi núi non, ra vào chốn tù tội”, thậm chí cận kề với cái chết của chính bản thân Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc giá trị của độc lập dân tộc, ngay sau khi tìm ra con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tích cực hoạt động, đẩy mạnh công tác vận động cách mạng, chuẩn bị các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản, tổ chức và xây dựng lực lượng cả chính trị lẫn vũ trang, xây dựng và phát triển căn cứ địa cách mạng; đặc biệt là sáng suốt phân tích tình hình trong nước và thế giới, nắm bắt thời cơ, kịp thời phát động tổng khởi nghĩa. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc tổng khởi nghĩa toàn dân chưa từng có trong lịch sử dân tộc, thay đổi hoàn toàn thân phận người Việt Nam - từ người nô lệ thành người tự do, đưa Việt Nam bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh xác định rất rõ rằng, khi đất nước đã được độc lập, tự do thì vấn đề có ý nghĩa quyết định cho phát triển của xã hội là phải xác định được con đường đi đúng đắn - con đường đi tới xã hội tự do, công bằng, bình đẳng. Theo Người, sự lựa chọn duy nhất đúng đó chính là chủ nghĩa xã hội - xã hội văn minh nhất trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, một xã hội phù hợp với bản chất, bản tính và khát vọng của con người. Con đường phát triển chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển vững chắc nhất thành quả của độc lập dân tộc, đảm bảo cho nhân dân thực sự được hạnh phúc, ấm no. Đồng thời, độc lập dân tộc cũng là điều kiện, tiền đề, cơ sở để thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Sự lựa chọn này của Hồ Chí Minh trước hết xuất phát từ xu thế phát triển khách quan của lịch sử – xu thế mà không lực lượng nào có thể ngăn cản nổi: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”(3). Sự khẳng định này không chỉ xuất phát từ “ham muốn” cảm tính của tinh thần nhân văn, ước mơ tới một xã hội tốt đẹp cho mọi người, mà quan trọng hơn là từ những nhận thức khoa học và óc quan sát thực tế.
Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh luôn được diễn đạt rất bình dị, gần gũi, thiết thực - khác xa chủ nghĩa xã hội mà nhiều người ngộ nhận với những tiêu chí có tính áp đặt, xa vời, phi hiện thực: Chủ nghĩa xã hội là mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự do; là dân giàu và nước mạnh; là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân… Như vậy, chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh là một xã hội đáp ứng ngày càng cao và toàn diện mọi nhu cầu chính đáng, thiết thực của con người. Đây cũng chính là tiêu chí quan trọng nhất, bản chất nhất để đánh giá sự phát triển của một xã hội.
2. Xây dựng và phát triển con người toàn diện - trung tâm của sự phát triển xã hội
Sự phát triển xã hội, theo Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở trình độ xây dựng kinh tế, nâng cao điều kiện vật chất, kỹ thuật, mặc dù đó là cơ sở, là nền tảng cho sự phát triển mà tiêu chí cao nhất, vấn đề trung tâm chính là sự giải phóng con người, tạo ra những điều kiện cho sự phát triển toàn diện và hài hòa của con người, trình độ phát triển người trong một xã hội. Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đặt con người ở vị trí trung tâm theo hai hướng thống nhất - vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Con người mà Hồ Chí Minh quan niệm trước hết là từng cá nhân, sau đó là từng lớp người, nhưng tựu trung lại là đồng bào, là nhân dân. Lực lượng xây dựng và phát triển xã hội là toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Những danh hiệu cao quý dành cho những con người ưu tú trong xã hội cũng là “nhà giáo nhân dân”, “nghệ sĩ nhân dân”… Công cụ và phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc cũng là “chính quyền nhân dân”, “chiến tranh nhân dân”… Cơ cấu tạo nên sức mạnh phát triển xã hội là khối đại đoàn kết toàn dân.
Để xây dựng và phát triển xã hội, Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc đến các quan hệ quyền lực của con người - quyền lực thuộc về nhân dân: “Nhân dân phải là gốc”. Nhân dân là chủ thể chân chính nhất của tất cả quyền lực trong xã hội, được hưởng mọi quyền tự do, dân chủ và biết sử dụng các quyền đó. Điểm đặc biệt ở Hồ Chí Minh là Người đặt niềm tin tuyệt đối vào nhân dân và biết tìm mọi cách để phát huy, khơi dậy sức mạnh, sức sáng tạo và sự đồng lòng quyết tâm của họ. Người luôn căn dặn: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(4) và “Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(5). Để giải quyết được mối quan hệ quyền lực Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ thì nhất thiết phải thực hành và phát huy dân chủ, đồng thời không ngừng nâng cao dân trí.
Hồ Chí Minh quan niệm, với tư cách là chủ thể văn hóa, con người không chỉ được giải phóng về mặt xã hội, mà điều quan trọng hơn là được giải phóng và phát triển toàn bộ phẩm chất và tiềm năng tốt đẹp của mình. Người luôn quan tâm xây dựng con người phát triển toàn diện, hài hòa tất cả các mặt đức - trí - thể - mỹ, hồng thắm chuyên sâu, đức tài vẹn toàn. Đó chính là những con người xã hội chủ nghĩa - động lực quan trọng nhất trong cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Trong hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh từ rất sớm đã lên án chính sách ngu dân, mị dân của đế quốc, thực dân; luôn đề cao vai trò của giáo dục, đào tạo và coi đó là vấn đề chiến lược: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”(6). Người cũng là lãnh tụ đầu tiên trên thế giới đã chỉ ra và gọi tên đích danh dốt nát là một loại giặc, kêu gọi toàn dân tham gia chiến dịch diệt giặc dốt, nâng cao dân trí, đẩy mạnh xây dựng đời sống mới. Mỗi dịp khai giảng hay những ngày kỷ niệm của ngành giáo dục, Người đều đến dự, phát biểu chỉ đạo hoặc viết thư chúc mừng, động viên, đặc biệt luôn chú trọng việc giáo dục thiếu niên nhi đồng về đức dục, trí dục và căn dặn ngành giáo dục phải chú ý phát triển toàn bộ năng lực sẵn có của thế hệ trẻ.
Trong xây dựng và phát triển con người toàn diện, nét đặc sắc của Hồ Chí Minh chính là tinh thần khoan dung văn hóa. Toàn bộ hoạt động kiến tạo một xã hội Việt Nam mới của Người đều bắt nguồn từ lý tưởng bao dung của dân tộc. Người luôn giáo dục nhân dân ta giữ gìn bản sắc của một dân tộc yêu hòa bình và trọng công lý. Xuất phát từ sự thấu hiểu và thấu cảm về bản chất của con người cũng như tính đa dạng, phức tạp của hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn có cái nhìn bao dung, độ lượng với những sai lầm, vấp ngã của con người và tìm ra biện pháp để khơi dậy bản tính hướng thiện trong mỗi con người. Người từng khuyên nhủ: “Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ”(7).
Nhờ tấm lòng bao dung, độ lượng ấy mà Hồ Chí Minh đã lôi kéo, cảm hóa được biết bao con người từng “lầm đường lạc lối” và tạo ra sức thuyết phục, sự nể phục với cả những con người ở bên kia chiến tuyến, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển. Có thể thấy, một xã hội luôn phấn đấu cho mục tiêu nhân văn sẽ là một xã hội vận động cùng chiều với sự phát triển, tiến bộ; một xã hội mà con người được đặt ở vị trí trung tâm thì con người sẽ trở thành nội lực mạnh mẽ nhất, thúc đẩy xã hội phát triển. Sự phát triển có sức sống tự trong lòng nó như vậy, nên thực chất đó là sự phát triển bền vững.
3. Phát triển toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội, nền tảng là một thể chế chính trị tiến bộ dựa trên cơ sở một nền kinh tế vững chắc
Sự phát triển hài hòa các mặt đời sống xã hội trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh được thể hiện rõ trong đường lối chính trị và chính sách kinh tế - xã hội, văn hóa của Đảng và Nhà nước ngay từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Trên cương vị Chủ tịch nước, Người đã sớm chỉ rõ: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cũng như phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”(8). Trong đó, Người đặc biệt nhấn mạnh việc cần có một thể chế chính trị tiến bộ, phù hợp, đủ sức tổ chức và điều khiển bộ máy nhà nước hoạt động hữu hiệu, tạo ra sức mạnh nhà nước và hiệu quả kinh tế như là nguồn lực bên trong của một xã hội.
Về thể chế chính trị, theo Hồ Chí Minh, phải có một Đảng cầm quyền đủ bản lĩnh, trí tuệ và tài năng vạch ra cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược để lãnh đạo toàn dân thực hiện lý tưởng cách mạng; một Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, đảm đương được trách nhiệm lớn lao; một hệ thống các cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội của công nhân - nông dân - trí thức, tạo thành Mặt trận dân tộc thống nhất toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Sự thống nhất Đảng - Nhà nước - Nhân dân trong một chỉnh thể chính trị như vậy sẽ là nơi tập trung và thể hiện toàn bộ sức mạnh của nhân dân, người dân thật sự là người chủ, tạo ra sức mạnh cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Bản chất dân chủ của chế độ đòi hỏi người lãnh đạo cách mạng là Đảng phải luôn giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo, tăng cường đoàn kết nhất trí, thường xuyên chỉnh đốn và nâng cao sức chiến đấu; cán bộ, đảng viên phải nghiêm khắc tu dưỡng, rèn luyện để thật sự là người đầy tớ trung thành của nhân dân; Nhà nước phải phát huy cao độ quyền làm chủ và sinh hoạt chính trị toàn dân, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân thông qua các định chế dân chủ (trực tiếp, gián tiếp), làm cho mọi công dân có quyền thực sự tham gia quản lý công việc của Nhà nước.
Về kinh tế, do đặc điểm của nền kinh tế miền Bắc lúc bấy giờ là nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng đến sự phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới với cơ chế quản lý kinh tế hợp lý. Người chủ trương không ngừng nâng cao năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Nhận rõ tính phức tạp của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Người đặc biệt quan tâm tới vấn đề các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, vấn đề vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế, trong đó ưu tiên kinh tế quốc doanh, tạo nền tảng vật chất cho cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Đối với kinh tế hợp tác xã - hình thức của sở hữu tập thể - Người chỉ rõ việc tổ chức theo nguyên tắc từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, gò ép, hình thức. Đối với tư sản công thương nghiệp, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu tư liệu sản xuất mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước, giúp đỡ họ cải tạo theo hướng xã hội chủ nghĩa bằng các hình thức tư bản nhà nước.
Đồng thời, để tạo ra động lực cho phát triển kinh tế, Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và khoán trong sản xuất. Người nói rằng: “Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng…; làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”(9). Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định đúng mâu thuẫn cơ bản nhất của thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam, đồng thời chỉ ra phương hướng đúng đắn cho việc giải quyết mâu thuẫn ấy, góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm cho sự phát triển đất nước.
4. Kết hợp truyền thống - hiện đại, dân tộc - giai cấp, dân tộc - quốc tế, con người - thiên nhiên: Mối liên hệ tất yếu bảo đảm sự phát triển xã hội
Sức sống của sự phát triển lâu bền chỉ có được khi một xã hội phát huy cao độ và giải quyết hài hòa các mối quan hệ đan xen. Sự gắn bó hài hòa giữa các mặt, các yếu tố này, theo Hồ Chí Minh, chính là nguyên tắc của sự phát triển xã hội bởi giữa các yếu tố luôn có sự tác động qua lại, bổ trợ cho nhau.
Về mối quan hệ giữa truyền thống - hiện đại, Hồ Chí Minh quan niệm “truyền thống” là những phẩm chất, đặc điểm của con người được hình thành trong quá trình lịch sử và có tính ổn định, bền vững tương đối, ví dụ như: truyền thống yêu nước, đoàn kết, truyền thống chống giặc ngoại xâm… Hồ Chí Minh có cái nhìn rất biện chứng khi luôn phân biệt rõ ràng giữa hai loại truyền thống, xuất phát từ vai trò, ảnh hưởng của chúng đối với xã hội: truyền thống tốt đẹp và truyền thống lạc hậu. Còn “hiện đại” là khái niệm thường gắn liền với những gì mới mẻ, tiến bộ, đối lập với sự lạc hậu, với cái cũ.
Nếu truyền thống thuộc về lịch sử, quá khứ thì hiện đại là những giá trị đặc trưng cho hiện tại và là tiền đề để đi đến tương lai. Hiện đại trở thành khung tham chiếu để đánh giá và kế thừa truyền thống. Đồng thời, hiện đại phải trở thành cái nâng cao truyền thống - đó mới là sức mạnh và sức bền của sự phát triển xã hội. Hồ Chí Minh nhờ giải quyết đúng đắn quan hệ giữa truyền thống và hiện đại mà luôn có thái độ ứng xử rất mực văn hóa đối với những tinh hoa của dân tộc và nhân loại, cả truyền thống lẫn hiện đại. Người không đoạn tuyệt với quá khứ, cũng không chấp nhận những cái gì giả danh cái mới để chống phá cách mạng mà luôn có sự chắt lọc trên tinh thần “gạn đục khơi trong”.
Về mối quan hệ giữa dân tộc - giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là giải quyết vấn đề sắp xếp vị trí các giai tầng trong xã hội và giải quyết hài hòa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, theo Hồ Chí Minh, “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ… là bầu bạn cách mệnh của công nông”(10).
Quan điểm này vừa xác định trúng lực lượng nòng cốt của cách mạng vừa tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các giai tầng khác, giúp mở rộng tối đa mặt trận đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời, Hồ Chí Minh luôn khẳng định, vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc là yếu tố phải được đặt lên trên hết, trước hết, bởi nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Như vậy, yếu tố giai cấp được biểu hiện ở yếu tố dân tộc, và vấn đề dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, dựa vào lực lượng nhân dân, nòng cốt là liên minh công nông, do chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Về mối quan hệ giữa dân tộc - quốc tế, Hồ Chí Minh khẳng định, dân tộc là bộ phận của quốc tế, một dân tộc phải nằm trong mối quan hệ qua lại với các dân tộc khác và cộng đồng quốc tế như là sự gắn bó tất yếu, tự nhiên để cùng tồn tại và trưởng thành. Xu thế và hoàn cảnh quốc tế là môi trường và điều kiện quan trọng cho sự tồn tại, phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, bằng hình ảnh “con đỉa hai vòi”, Người đã chỉ rõ mối liên hệ chặt chẽ giữa cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc khi có chung kẻ thù và chung mục đích - giải phóng thuộc địa, giải phóng loài người khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Trong mối quan hệ này, Hồ Chí Minh đánh giá cao yếu tố quốc tế nhưng cũng luôn nhấn mạnh đó chỉ là yếu tố ngoại sinh, muốn chuyển hóa nó thành sức mạnh thì vai trò của chủ thể tiếp nhận là rất quan trọng: “Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta”(11). Đây cũng chính là phương thức kết hợp yếu tố quốc tế với yếu tố dân tộc, chuyển hóa yếu tố ngoại sinh thành sức mạnh nội sinh.
Về mối quan hệ giữa con người - thiên nhiên, Hồ Chí Minh khẳng định dây là mối quan hệ hết sức gắn bó, giống như một chỉnh thể thống nhất tất yếu, không thể chia cắt. Người thường ví rằng: Trời có bốn mùa, người có bốn đức tính. Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa là điều kiện lý tưởng cho sự ổn định, phát triển và trường tồn. Quan điểm và hành vi “trồng cây”, “trồng người” của Hồ Chí Minh được thể hiện và thực hiện trong các chính sách về môi trường, trong Tết trồng cây, trong giáo dục thế hệ trẻ… thể hiện ẩn ý sâu xa trong triết lý của Người về mối quan hệ con người - thiên nhiên, đảm bảo tính hài hòa và trường tồn của vũ trụ.
5. Phát huy các động lực và nguồn lực để thúc đẩy xã hội phát triển, đặc biệt là các động lực chính trị - tinh thần
Để xã hội phát triển cần một hệ thống các nguồn lực, động lực. Đó chính là một phức hợp những yếu tố về vật chất và tinh thần, truyền thống và hiện đại, trong nước và quốc tế. Ở Việt Nam, nói đến những nhân tố tác động, thúc đẩy sự biến đổi của xã hội theo hướng tích cực, tiến bộ thì trước hết phải nói đến nội lực, trong nội lực thì động lực tinh thần là chủ yếu. Đó là chủ nghĩa yêu nước - “làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn,… lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,… nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(12); là truyền thống đoàn kết - nền tảng của mọi thành công; là thể chế và quy chế dân chủ - “chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(13).
Đó là sự phát triển văn hóa - khoa học - giáo dục - những nguồn lực nội sinh từ thượng tầng kiến trúc - bởi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, “soi đường” cho quốc dân đi; bởi “chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học, chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận”(14); bởi giáo dục là giải pháp quan trọng nhất để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đó còn là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của một đảng chân chính, cách mạng - Đảng Cộng sản. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, lấy quần chúng công nông làm gốc, phải đề ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn, phải liên lạc và đoàn kết với giai cấp vô sản của các dân tộc khác. Đặc biệt, Đảng phải không ngừng tự chỉnh đốn, tự đổi mới để có thể đảm đương được trọng trách của mỗi giai đoạn lịch sử, để thật sự “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng là Đảng của toàn dân, đại biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc và thời đại.
Bên cạnh các nội lực, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ phải tranh thủ huy động mọi nguồn ngoại lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Ngay trong bức thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 1.11.1945, Hồ Chí Minh đã nêu nguyện vọng gửi 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ để mở rộng quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Mong muốn “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(15) được nêu ra không lâu sau ngày độc lập. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người luôn nhắc nhở, phải tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Đề cao ngoại lực nhưng Hồ Chí Minh luôn khẳng định rất rõ: giữa nội lực và ngoại lực thì nội lực vẫn là gốc, là nền tảng; phải biết biến ngoại lực thành nội lực; và tuyệt đối tránh thái độ trông chờ, ỷ lại, dựa dẫm vào nước khác. Bởi vậy, trong cách mạng giải phóng dân tộc, Người kêu gọi đồng bào cả nước phải đem sức ta mà giải phóng cho ta, còn sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là “do nhân dân tự xây dựng lấy”(16). Ngoại lực, cũng như các yếu tố nội lực không tồn tại biệt lập mà phải được đồng thời tác động để tạo ra hợp lực, thúc đẩy chủ thể nhanh đi tới đích và đạt mục tiêu đề ra.
Năm luận điểm nêu trên đã khái quát những vấn đề cơ bản trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh: từ mục tiêu, điều kiện, nội dung đến nguyên tắc, động lực thúc đẩy sự vận động, phát triển của cách mạng và xã hội. Có thể thấy, triết lý phát triển Hồ Chí Minh đã trở thành phương châm sống, phương châm hành động, ứng xử của Người trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vì mục tiêu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Linh hồn của triết lý đó - kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội nhằm phát triển xã hội theo hướng nhân văn, phát triển bền vững - chính là quan điểm phát triển khoa học, đúng đắn và tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại ngày nay./.
____________________
(1) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.4, tr.187.
(2), (13) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.15, tr.130, 325.
(3) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.1, tr.496.
(4), (9), (11) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.10, tr.453, 537-538, 56.
(5), (15) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.5, tr.502, 256.
(6), (14) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.11, tr.528, 354.
(7) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.6, tr.130.
(8) Hồ Chí Minh (1978), Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb. Sự thật, H., tr.345.
(10) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.2, tr.297.
(12) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.7, tr.38.
(16) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.13, tr.387.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 05.2021
Bài liên quan
- Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
- Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
- Tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp cận từ góc độ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 3 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Việc sử dụng ChatGPT để cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên chuyên ngành ngôn ngữ Anh mang lại nhiều lợi ích. Công cụ này giúp tăng cường tương tác, cá nhân hóa học tập và cung cấp tài liệu phong phú cho cả giáo viên và sinh viên. Sinh viên có thể tiếp cận ngữ pháp, từ vựng và kỹ năng viết một cách nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên, để tối ưu hóa lợi ích, giáo viên cần hướng dẫn sinh viên sử dụng ChatGPT một cách có ý thức, khuyến khích tư duy độc lập và tự đánh giá.
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất, Người đã để lại di sản quý báu về tư tưởng, đạo đức, phong cách cho Đảng và Nhân dân ta. Di sản Hồ Chí Minh bao quát rộng lớn các vấn đề của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến lời dạy của Người trong Thư gửi “Quân nhân học báo” tháng 4/1949: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(1) là vấn đề có ý nghĩa thời sự đối với việc nghiên cứu, học tập của cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên làm công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng hiện nay.
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử đặc biệt, có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn, hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc về xây dựng Đảng cầm quyền, đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trải qua 55 năm, di huấn của Người về vấn đề này vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và thời đại.
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Suy ngẫm tư tưởng Hồ Chí Minh về “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” và nghiên cứu Điều 3 Quy định số 144 để thấy được bước phát triển của Đảng về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
Bình luận