Ứng dụng ký hiệu học trong ngôn ngữ hình ảnh truyền hình
Bối cảnh
Hiện nay, báo chí, truyền thông đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong hầu hết các hoạt động xã hội, vì nó là thứ giúp chúng ta giải quyết các công việc hàng ngày. Hoạt động của Báo chí nói chung, của lĩnh vực truyền hình nói riêng ngày càng mang tính toàn cầu, cả về quy trình sản xuất và công chúng tiếp nhận. Bối cảnh đó đặt ra yêu cầu đối với người làm báo để hiểu công chúng và nắm bắt thị hiếu toàn cầu. Đây là thách thức đối với nhà báo nhằm lựa chọn nội dung đảm bảo đúng chức năng, nhiệm vụ thông tin và tuân thủ các nguyên tắc nghề nghiệp giữa dòng chảy thông tin cực lớn và sự đa dạng trong nội dung của báo chí.
Bài viết này tập trung vào thảo luận những vấn đề chính đối với những nhiệm vụ được đặt ra ở trên bao gồm:
- Hiệu quả tiếp cận đa văn hoá của ngôn ngữ hình ảnh truyền hình
- Ngôn ngữ hình ảnh truyền hình giới thiệu các giá trị văn hoá dân tộc
- Ngôn ngữ hình ảnh truyền hình chứa đựng yếu tố giao tiếp liên văn hoá.
Bên cạnh đó, nghiên cứu sử dụng lý thuyết Ký hiệu học xem xét các yếu tố văn hóa và giao tiếp liên văn hoá đặc trưng trong các sản phẩm truyền hình hiện nay. Ký hiệu học là một thuật ngữ quen thuộc đối với các nhà báo, nhà truyền thông, nghiên cứu ngôn ngữ và tâm lý… Nó được sử dụng rộng rãi trong nội dung đào tạo về báo chí - truyền thông ở bậc trung học và chương trình đại cương ở bậc đại học trên thế giới. Nói một cách đơn giản, ký hiệu học là hoạt động nghiên cứu giao tiếp bằng cách giải mã các dấu hiệu và ký hiệu trên hình ảnh truyền hình. Ký hiệu học sử dụng nghiên cứu ngôn ngữ hình ảnh trên truyền hình rất hiệu quả, ví dụ khi xem hình ảnh dưới đây:
Người xem sẽ đặt ra một số câu hỏi cơ bản:
- Hình ảnh được chụp/ghi hình ở đâu?
- Hình ảnh được sử dụng ở trên tờ báo nào?
- Mục đích của phóng viên/nhà báo là gì?
Rất nhiều người nhìn vào hình ảnh trên và nhận ra đây là hình ảnh chiến đấu chống đại dịch Covid-19 của các bác sĩ tình nguyện và bệnh nhân tuyến đầu chống dịch tại thời điểm căng thẳng nhất. Những sự hy sinh, gian khổ của các chiến sĩ áo trắng, những khó khăn, đau đớn giữa ranh giới sự sống và cái chết của người bệnh nhiễm Covid-19. Điều này thể hiện rõ ràng rằng, hình ảnh bản thân nó chứa đựng một ngôn ngữ hình ảnh riêng (các ký hiệu được thể hiện trên hình ảnh đó), nó có chức năng dùng để kể một câu chuyện và liên kết với kiến thức của chúng ta về những hình ảnh tương tự đã bắt gặp trong quá khứ.
Nguyên lý của Ký hiệu học
Nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ Ferdinand de Saussure (1857 - 1913) là người sáng lập ký hiệu học, ký hiệu học là môn khoa học nghiên cứu về các dấu hiệu. Ông cho rằng, các dấu hiệu là một phần quan trọng của đời sống xã hội của chúng ta. Dấu hiệu có hai phần, “cái được đại diện” và “ý nghĩa được biểu thị”. Cái được đại diện là hình thức vật chất của ý nghĩa được tượng trưng. Ý nghĩa được biểu thị là khái niệm mà cái được tượng trưng đề cập về ý nghĩa hoặc ý tưởng. Cái được đại diện thông thường là các âm thanh hoặc hình ảnh.
Ký hiệu học tập trung vào mối quan hệ giữa ký hiệu (thứ đang làm đại diện) và ý nghĩa được ký hiệu (cái được biểu thị). Ngôn ngữ là ví dụ dễ hiểu nhất của khởi nguồn ký hiệu học. Tất cả sự vật, hiện tượng trong cuộc sống của chúng ta đều có tên gọi, và mọi người thống nhất đặt tên cho nó là như vậy, ví dụ cái cây, lá cây, vỏ cây…. Tương tự với mọi thứ trên thế giới - chúng ta đặt tên cho mọi thứ để biết chúng ta đang đề cập đến điều gì. Chúng ta biết điều này bởi vì cùng một thứ có các ký hiệu khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau, nhưng chúng đều đề cập đến cùng một thứ.
Ví dụ từ "Rose" trong tiếng Anh khiến chúng ta hiểu mang nghĩa một bông hoa hồng vì chúng ta đã quen thuộc với các mã của một ngôn ngữ cụ thể và cách sắp xếp các chữ cái để tạo thành một từ có nghĩa. Giao tiếp bằng văn bản có các mã giúp chúng ta hiểu ý nghĩa, giao tiếp bằng hình ảnh cũng có các mã giúp chúng ta hiểu được những gì chúng ta nhìn thấy. Hình ảnh trên truyền hình sử dụng kỹ thuật ký hiệu học một cách vô thức. Thứ ở rất xa trong một hình ảnh thường rất nhỏ, một cái gì đó ở gần hơn có kích thước lớn hơn. Hình ảnh một người được ghi hình ở dưới lên tạo ra sự mạnh mẽ, trong khi góc hình ngược lại ám chỉ sự yếu đuối. Hình ảnh tối thể hiện sự bí ẩn, nguy hiểm đang diễn ra, trong khi hình ảnh sáng truyền đạt cảm giác nhẹ nhàng hoặc nhẹ nhõm. Trên truyền hình không có hình ảnh nào không có ý đồ của nhà báo, tất cả đều được sử dụng hiệu quả thông qua việc thường xuyên tiếp xúc và diễn giải hình ảnh.
Dấu hiệu, hàm ý và câu chuyện liên tưởng của hình ảnh truyền hình
Con người nhận thức về ngôn ngữ hình ảnh giống như quá trình chúng ta tiếp xúc với ngôn ngữ nói, nên yếu tố văn hóa là yếu tố chung của hai loại ngôn ngữ này, vì suy cho cùng, chúng thực sự là sản phẩm của nền văn hóa nhân loại. Điều này thể hiện rõ ràng nhất trong ba khía cạnh khác của ký hiệu học bao gồm: Dấu hiệu, hàm ý và câu chuyện liên tưởng. Các hình ảnh du lịch trên truyền hình là một ví dụ.
Dấu hiệu là tầng thông tin đầu tiên chúng ta tiếp nhận trong một hình ảnh, đây là "nghĩa đen", "hiển nhiên" hoặc "thông thường" của một hình ảnh. Ví dụ, trong hình ảnh của Venice, dấu hiệu được mô tả đơn giản là "3 chiếc thuyền phía trước các tòa nhà cũ". Sau khi tiếp xúc tầng thông tin đầu tiên, tầng thông tin thứ hai là hàm ý sẽ tổng hợp các ý nghĩa khác mà chúng ta có đối với một dấu hiệu, thường dựa trên trải nghiệm của mỗi người. Khi nhìn vào hình ảnh, chúng ta có thể tưởng tượng ra "sự lãng mạn" hoặc các yếu tố "lịch sử", bất kỳ cảm xúc nào khác chúng ta có khi nghĩ đến Venice.
Câu chuyện liên tưởng là tầng thông tin cuối cùng mà các dấu hiệu trong hình ảnh đem lại, mang đậm ý nghĩa văn hóa đến mức chúng được mọi người chia sẻ rộng rãi và chấp nhận. Trong ví dụ này, người xem có sự liên tưởng về cuộc sống của người Venice, điều được gói gọn trong tất cả các ý nghĩa ở trên và hơn thế nữa. Câu chuyện liên tưởng theo nghĩa này không có nghĩa là nó hư cấu hoặc sai, mà đó là sự tích tụ bề dày văn hóa. Chúng ta thường đi du lịch đến những nơi trên thế giới vì những sự tích gắn liền với chúng.
Nhìn vào các hình ảnh khác cũng giúp chúng ta có những dấu hiệu, hàm ý và sự tích có thể liên quan đến chúng. Mỗi khi chúng ta ghi lại hình ảnh nào đó, chúng ta thường áp cho chúng các hàm ý và câu chuyện liên tưởng trong văn hoá của bản thân (cả cố tình và vô ý). Ví dụ, khi ghi lại hình ảnh của sư tử, phóng viên đã kết nối với những câu chuyện kể về châu Phi, tương tự với Taj Mahal và Quảng trường Thời đại... Điều này xảy ra đối với nhiều hình ảnh khác nhau, nhưng hình ảnh du lịch lại có sự thú vị đặc biệt, vì chúng thường đại diện cho các nền văn hóa đa dạng của nhân loại. Tất cả các hình ảnh đều khơi gợi trí tưởng tượng của người xem, mời gọi họ xây dựng một câu chuyện, cũng như một thực tế dựa trên ngụ ý những gì nó thể hiện. Đây là lý do tại sao hình ảnh du lịch trên truyền hình rất quan trọng, chúng kể lại câu chuyện và ngụ ý thuyết phục người xem đó là sự thật.
Ký hiệu học trong truyền hình
Ban đầu, khái niệm ký hiệu học dường như khá trừu tượng nhưng trên thực tế, chúng ta đang sử dụng kiến thức của ký hiệu học khá thường xuyên trong cuộc sống. Ví dụ như khi chụp ảnh hay quay phim bằng điện thoại thông minh là lúc chúng ta sử dụng các nguyên tắc của hình ảnh để diễn tả lại thế giới xung quanh qua lăng kính của cá nhân chúng ta. Từ đó có thể thấy, mỗi người sẽ diễn tả lại thế giới xung quanh mình theo một cách khác nhau, mang lại những sản phẩm phản ánh thế giới sinh động và đầy màu sắc.
Tư duy này được con ngưới áp dụng cả trong các lĩnh vực sản xuất nội dung chuyên nghiệp, thể hiện rõ nhất trong các ngành truyền thông như quảng cáo, nhiếp ảnh, truyền hình... Lĩnh vực truyền hình đang phải đối mặt với những thách thức lớn trong môi trường toàn cầu, vì những ký hiệu học mà nhà báo truyền hình thể hiện trong hình ảnh được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau phụ thuộc vào môi trường văn hóa của đối tượng tiếp nhận.
Ví dụ các video ngắn quảng bá du lịch Việt Nam trên truyền hình, nhiều khán giả xem đài sẽ nhận ra các hình ảnh quen thuộc, và đồng thời là cả những khía cạnh khác của cuộc sống không được đề cập trong đó. Tương tự với các video quảng bá du lịch ở các thành phố lớn trên thế giới như New York, Tokyo, London, Paris, Melbourne… mọi hình ảnh đã được lựa chọn để thể hiện sự tiêu biểu của nơi được giới thiệu, những hình ảnh chứa các yếu tố không phù hợp (như người vô gia cư, người gốc Á, người gốc bản địa, các bãi rác…) đều bị loại trừ. Hình ảnh được sử dụng trong các quảng cáo trên truyền hình sẽ phục vụ các khán giả mục tiêu mà nó nhắm tới, và nếu đối tượng khán giả thay đổi thì hình ảnh được sử dụng cũng sẽ có sự khác biệt.
Nội dung quảng cáo chỉ là một phần rất nhỏ trong các nội dung trên truyền hình. Truyền hình trong bối cảnh hiện nay đang có những thay đổi cả về chất và lượng, đặc biệt, đối tượng công chúng rộng mở hơn đặt ra yêu cầu cho yếu tố ngôn ngữ hình ảnh trên truyền hình giải quyết các vấn đề khác biệt văn hóa. Hình ảnh truyền hình hiện nay không chỉ xem xét yếu tố lựa chọn hình ảnh lên sóng mà còn cả cách thức truyền tải sản phẩm đến với các đối tượng khác nhau. Đối tượng công chúng càng rộng, sự đa dạng càng lớn, hình ảnh truyền hình càng cần có sự điều chỉnh linh hoạt trong biên tập và cách thức truyền đạt. Đây là thách thức lớn nhất của ngành công nghiệp truyền hình toàn cầu phải đối mặt và ngày càng thay đổi diện mạo của truyền hình nói chung, truyền hình Việt Nam nói riêng.
Tiêu chuẩn và thích ứng toàn cầu hoá
Đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất của truyền hình hiện đại. Nó giúp trả lời câu hỏi liệu truyền hình có thể sản xuất một nội dung tiêu chuẩn cho tất cả các đối tượng khác nhau hay phải điều chỉnh thông điệp cho từng nhóm đối tượng cụ thể? Đây là vấn đề các nhà nghiên cứu truyền hình trên thế giới đã đưa ra từ những năm 1960, đây cũng là dấu mốc bùng nổ đầu tiên của ngành truyền hình toàn cầu dựa trên sự phát triển của công nghệ. Nghiên cứu ban đầu ở châu Âu cho thấy, khán giả truyền hình tại nhiều quốc gia chia sẻ những giá trị rất giống nhau, có nghĩa là nội dung của truyền hình có thể sử dụng cùng một cách tiếp cận đối với họ. Điều này mang lại hiệu quả về chi phí.
Một số hình ảnh trên truyền hình toàn cầu trong Covid-19 thể hiện ý tưởng của truyền hình tiêu chuẩn hóa, thể hiện một số ý nghĩa phổ biến đối với tất cả mọi người đó là:
- Kiên cường chống dịch
- Hỗ trợ cộng đồng
- Chia sẻ khó khăn
- Cùng hy vọng vào một tương lai tươi sáng
Bên cạnh đó, nhiều nội dung khác trên truyền hình có thể được tiêu chuẩn hóa và đạt được hiệu quả cao trong thực tế, mang lại giá trị kinh tế lớn cho các nhà đài. Tuy nhiên, khi các nội dung trên truyền hình tiếp cận các môi trường đa dạng hơn về văn hóa, nó cần phải có những sự điều chỉnh và thay đổi để phù hợp hơn, gọi là sự “Thích ứng”.
“Tính phổ biến [nhu cầu] của nội dung không đồng nghĩa đó là thông điệp toàn cầu [phụ nữ tại Israel và Mỹ] có thể có nhu cầu về mỹ phẩm giống nhau (giữ gìn sắc đẹp), điều này không có nghĩa là phụ nữ Israel nhìn nhận mỹ phẩm Mỹ theo cách giống như phụ nữ Mỹ nhìn nhận. Vì vậy, hiểu rõ mong muốn, nhu cầu, động cơ và hành vi của công chúng là điều kiện cần để xây dựng nội dung sản phẩm hiệu quả ” (1).
Như vậy cái mà Gilligan và Hird đang gợi mở là dù một số nhu cầu có thể phổ biến, nhưng cách thể hiện nhu cầu thường dựa trên văn hóa. Điều này có nghĩa là nếu sản phẩm truyền hình tiếp cận môi trường văn hóa đa dạng, ngôn ngữ hình ảnh trên truyền hình cần được điều chỉnh phù hợp. Có thể lấy các ví dụ về các chương trình ẩm thực trên truyền hình, tại các quốc gia để thấy những tiêu chuẩn khác nhau về an toàn thực phẩm, quan niệm tôn giáo đối với thịt động vật, ăn chay, trang phục… Hầu hết các nội dung truyền hình ngày nay đang hướng tới tiếp cận toàn cầu, nên hầu hết các hình ảnh truyền hình là sự pha trộn giữa tiêu chuẩn và thích ứng./.
___________________________________________
(1) Gilligan, C. và Hird, M (2013), Tiếp thị Quốc tế (RLE International Business), Chiến lược và Quản lý. Routledge., P. 246, tr.246.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
- Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
- Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
- Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
- Một số giải pháp cải thiện hoạt động khai thác, xuất bản sách tinh gọn tại Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Nghiên cứu dựa trên các điều tra khảo sát hàng năm của khoa Xã hội học và Phát triển đối với sinh viên đang học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền nhằm đánh giá về nhiều vấn đề xã hội trong có đánh giá về giảng viên và cơ sở vật chất thông qua 48 biến số. Kết quả nghiên cứu năm 2024 với 734 sinh viên cho thấy, phần lớn sinh viên đánh giá ở mức cao hơn so với một số đánh giá của sinh viên tại các trường đại học khác. Có 7 nhóm yếu tố được đánh giá ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về giảng viên và cơ sở vật chất gồm: Chất lượng giảng viên; Chuyên môn của giảng viên; Phương pháp dạy của giảng viên; Năng lực tổ chức môi trường học tập; Phẩm chất sư phạm của giảng viên; Cố vấn học tập; Cơ sở vật chất. Đối với biến phụ thuộc đo lường về sự hài lòng của sinh viên dựa trên thang đo niềm tin (được đánh giá với thang đo từ 0-9 điểm) thông qua 9 biến số về quản lý, giảng viên, cơ chế đào tạo, phương pháp giảng dạy, thư viện và cơ sở vật chất của giảng đường.
Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
Trong bối cảnh du lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, việc phát triển du lịch bền vững tại Khánh Hòa đòi hỏi sự tham gia chủ động của cả chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng địa phương (CĐĐP). Quản trị truyền thông không chỉ góp phần xây dựng hình ảnh Khánh Hòa là một điểm đến bền vững, mà còn trở thành công cụ quan trọng trong việc kết nối các bên liên quan, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường và bảo tồn văn hóa bản địa. Bài báo khoa học này tập trung hệ thống hóa và đánh giá tiềm năng du lịch cộng đồng (DLCĐ) tại tỉnh Khánh Hòa, đồng thời đề xuất các giải pháp quản trị truyền thông hiệu quả nhằm phát triển DLCĐ một cách đồng bộ, giúp du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và đúng định hướng chiến lược, trong đó DLCĐ đóng vai trò cốt lõi. Kết quả nghiên cứu được thu thập thông qua các phương pháp như: phỏng vấn sâu; phương pháp khảo sát; phân tích, tổng hợp và so sánh dữ liệu; xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS.22.0.
Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Cuộc cách mạng 4.0 đang tạo ra sự thay đổi sâu rộng trong ngành truyền hình với sự xuất hiện của truyền hình đa nền tảng. Khác với truyền hình truyền thống, truyền hình đa nền tảng đã và đang định hình lại cách thức tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung thông qua các đặc trưng nổi bật như tính thời sự, khả năng lan truyền thông tin nhanh chóng, tính đa dạng và tương tác cao, quản lý và lưu trữ hiệu quả. Vận hành một mô hình sản xuất truyền hình đa nền tảng cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, trong đó nhấn mạnh đến các nguyên tắc về thông tin chính xác, kết hợp sản xuất nội dung với công nghệ mới, phát triển đa dạng các nền tảng...
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Bài viết nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội đối với hoạt động báo chí hiện nay, tập trung vào sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, phân phối tin tức và cấu trúc nội dung báo chí. Truyền thông xã hội đã trở thành một nguồn tin phong phú, đa chiều và nhanh chóng, làm thay đổi đáng kể cách thức thu thập và truyền tải thông tin. Tuy nhiên, tính xác thực của nguồn tin mạng xã hội vẫn là một thách thức, đòi hỏi báo chí phải chú trọng vào việc kiểm chứng và phản hồi thông tin một cách chính xác. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất báo chí cần phát triển nội dung chất lượng cao, tăng cường kỹ năng công nghệ số của phóng viên và xây dựng các nền tảng số riêng để giảm sự phụ thuộc vào truyền thông xã hội, đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy trong kỷ nguyên số.
Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
Ngày 17/11/2017, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Quan điểm chỉ đạo được nhấn mạnh trong Nghị quyết (NQ) là: “…chủ động thích ứng, phát huy tiềm năng, thế mạnh, chuyển hóa những thách thức thành cơ hội để phát triển, bảo đảm được cuộc sống ổn định…” (1). NQ này đã được các cơ quan liên quan, trong đó có các cơ quan báo chí quán triệt, triển khai thực hiện. Tuy nhiên, để “chuyển hóa những thách thức thành cơ hội”, nhất là với vùng đồng bằng sông Cửu Long, để phát triển bền vững, an toàn, thịnh vượng thì vai trò, trách nhiệm của báo chí cần được nhận thức đầy đủ, chủ động hơn.
Bình luận