Vận dụng nội dung Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII vào giảng dạy triết học Mác – Lênin
Tư duy lý luận có thể coi là thước đo trình độ phát triển khoa học của mỗi quốc gia, dân tộc. Ph.Ănghen đã chỉ ra vai trò to lớn của lý luận trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên: “Một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”(1).
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội… Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(2).
Triết học Mác - Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin - là nền tảng lý luận và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Triết học Mác - Lênin được đưa vào chương trình đào tạo đại học, sau đại học và nhiều chương trình bồi dưỡng. Tuy nhiên, việc giảng dạy môn học này chưa thực sự hấp dẫn và người học chưa thấy hết giá trị nền tảng lý luận cũng như giá trị thực tiễn, dẫn đến một bộ phận người học lười và ngại học lý luận.
Thực tiễn cho thấy, triết học không trực tiếp cung cấp các giải pháp công nghệ, không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, không trực tiếp thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cho nên việc làm cho người học nhận thức đúng về vai trò của triết học trong đời sống xã hội là yêu cầu tất yếu của việc giảng dạy triết học Mác - Lênin. Bởi vậy, giảng viên giảng dạy triết học bên cạnh việc cần thường xuyên thu thập các nguồn tài liệu về các sự kiện đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trên mọi lĩnh vực ở trong nước cũng như quốc tế, để cập nhật vào bài giảng, làm cho bài giảng phong phú và người học thấy tính thực tiễn của các môn lý luận chính trị thì cần vận dụng nội dung các văn kiện, nghị quyết của Đảng vào bài giảng là cần thiết, vì đây là nguồn tài liệu chính thống và đáng tin cậy.
Hơn nữa, giảng dạy các môn lý luận chính trị nói chung và giảng dạy triết học Mác - Lênin nói riêng góp phần không nhỏ vào việc thực hiện nghị quyết. Chủ trương, đường lối của Đảng cần được vận dụng, liên hệ vào bài giảng triết học Mác - Lênin để sớm hiện thực hóa nghị quyết trong cuộc sống; đồng thời thông qua thực hiện nghị quyết, vai trò nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng được chứng minh rõ ràng hơn.
Một số nội dung trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam có thể vận dụng vào giảng dạy môn triết học Mác - Lênin:
Thứ nhất, ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ lý luận của phép biện chứng duy vật thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
Một là, quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện có ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật. Quan điểm này đòi hỏi khi xem xét sự vật, hiện tượng phải xem xét các mặt, các mối liên hệ của nó và phải biết được đâu là mối liên hệ cơ bản chủ yếu để từ đó nắm được bản chất của sự vật. Trong tác phẩm “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?” V.I.Lênin đã nhận ra và phê phán những sai lầm của các nhà xã hội học chủ quan là không có quan điểm toàn diện, quan điểm biện chứng trong nhận thức xã hội, lịch sử, đã không phân biệt được những hiện tượng nào là quan trọng và những hiện tượng nào là không quan trọng(3). Trong hoạt động thực tiễn, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đưa ra những giải pháp đồng bộ, sử dụng nhiều biện pháp khác nhau nhưng có trọng tâm, trọng điểm để có thể cải tạo sự vật hiện tượng một cách hiệu quả nhất.
Quan điểm toàn diện thể hiện rõ trong nội dung về phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ Đại hội XIII và những năm tiếp theo của Đảng: “Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”(4). Đảng ta cũng xác định “Tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để sớm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(5); “phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh”(6).
Quan điểm toàn diện đòi hỏi tránh chiết trung và nguỵ biện, tức là cũng để ý đến các mối liên hệ nhưng lại cào bằng vị trí của các mối liên hệ hoặc đánh tráo vai trò của các mối liên hệ. Nhận thức rõ yêu cầu của quan điểm toàn diện, Đại hội XIII của Đảng đã xác định vai trò, vị trí của các thành phần kinh tế, từ đó có những chính sách phù hợp để phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế: “kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường…; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã, tổ hợp tác có phạm vi hoạt động rộng lớn, có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết phối hợp sản xuất kinh doanh…; kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao…; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trò to lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu”(7).
Trên cơ sở xác định vai trò của các thành phần kinh tế, quán triệt quan điểm toàn diện, Đảng ta đã đưa ra chiến lược xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp đối với từng thành phần kinh tế. Đảng ta xác định: “Tiếp tục phát huy vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong việc hình thành và mở rộng các chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị, nhất là trong những ngành, lĩnh vực then chốt Nhà nước cần nắm giữ. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, lớn mạnh về quy mô, nâng cao về chất lượng. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác mà trọng tâm là hợp tác xã, hỗ trợ phát triển kinh tế hộ, liên kết hộ. Chuyển trọng tâm chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, ưu tiên các dự án có công nghệ hiện đại, công nghệ và giá trị gia tăng cao, mô hình quản trị hiện đại, có tác động lan toả, kết nối với khu vực kinh tế trong nước”(8).
Để thực hiện các định hướng đề ra tại Đại hội XIII, Đảng ta đã khẳng định cần giải quyết và phát triển toàn diện, hài hoà các mặt, các mối quan hệ xã hội: “xử lý tốt các mối quan hệ lớn: giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; và đặc biệt, mối quan hệ mới được được bổ sung lần này là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”(9).
Hai là, quan điểm phát triển. Quan điểm phát triển có ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật. Quan điểm này đã chỉ ra rằng mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong khuynh hướng vận động, phát triển nên khi xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng. Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi để có những giải pháp tạo điều kiện thúc đẩy sự vật phát triển theo hướng tích cực hoặc kìm hãm sự vận động, biến đổi theo hướng tiêu cực. Lý luận này được thể hiện rất rõ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
Đại hội XIII đã không chỉ nhận thức được bối cảnh hiện tại mà còn chỉ ra xu thế của thời đại để từ đó xây dựng định hướng phát triển: “Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thoả hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn….; kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch Covid -19. Các quốc gia, nhất là các nước lớn, điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh mẽ đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu”(10).
Quan điểm phát triển yêu cầu phải phân chia quá trình phát triển của sự vật thành những giai đoạn để tìm cách tác động, giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu cụ thể qua các giai đoạn:
Đến năm 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
Đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình cao.
Đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao(11).
Thứ hai, nội dung của chủ nghĩa duy vật lịch sử thể hiện trong Văn kiện XIII của Đảng.
Quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử có tính phổ biến, tác động đến toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử của nhân loại là quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật này chỉ ra rằng lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, tương ứng với mỗi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phải thiết lập một quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Lý luận này là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đại hội Đảng XIII khẳng định: “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”(12). Trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay khá đa dạng, không đồng đều, nhiều trình độ. Do đó, lôgíc tất yếu đối với quan hệ sản xuất cũng phải đa dạng. Đa dạng trong thành phần kinh tế, đa dạng trong hình thức sở hữu, đa dạng trong hình thức tổ chức quản lý và đa dạng trong hình thức phân phối.
Điều này được Đại hội Đảng XIII xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”(13).
Theo triết học Mác - Lênin, khoa học là yếu tố trong lực lượng sản xuất ngày càng đóng vai trò quan trọng, trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp” làm thay đổi đời sống xã hội cũng như hoạt động sản xuất vật chất của con người. Việc cần thiết phải tập trung phát triển khoa học công nghệ, tạo nền tảng cho sản xuất vật chất hiệu quả, kinh tế tăng trưởng đã được Đại hội XIII đề cập đến trong phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội: “phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế…; phát triển mạnh khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính của tăng trưởng kinh tế”(14).
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng trong triết học Mác - Lênin thể hiện ở chỗ tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có khả năng tác động trở lại cơ sở hạ tầng, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Việc hoàn thiện kiến trúc thượng tầng để phát huy vai trò của nó được Đảng ta cụ thể hoá trong đột phá chiến lược: “hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát Triển…”(15).
Vấn đề con người - Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử đã được chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử: quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất - là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Họ là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Hơn thế, quần chúng nhân dân còn là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần, là nguồn cảm hứng cho sự sáng tạo giá trị tinh thần, là người lưu truyền các giá trị văn hóa tinh thần. Xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử.
Hồ Chí Minh cũng đã nói “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(16). Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng luôn đề cao tư tưởng “lấy dân làm gốc”; luôn giáo dục cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần vai trò của quần chúng nhân dân, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Điều này lại tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện XIII của Đảng: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(17).
Theo triết học Mác - Lênin, con người vừa là sản phẩm của lịch sử vừa là là chủ thể của lịch sử. Có thể nói con người là trung tâm, là nguồn lực quan trọng nhất. Quan điểm này được Đảng ta chỉ rõ: “phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”(18).
Nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử là ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định nhưng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội. Thực tế cho thấy, nếu sự phát triển kinh tế chỉ vì mục tiêu kinh tế thuần túy thì sẽ để lại những tác động tiêu cực cho xã hội, trong đó có đời sống văn hoá tinh thần. Bởi vậy, việc phát huy các giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống là thiết yếu để thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội. Điều này được khẳng định trong Văn kiện Đại hội: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh; giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hoá vùng đồng bằng dân tộc thiểu số”(19).
Văn hoá được coi là sức mạnh nội sinh, nó làm nên cốt cách tinh thần của mỗi quốc gia, dân tộc. Sức mạnh nội sinh của việc phát triển con người và xây dựng đời sống văn hoá trong quá trình phát triển đất nước đã được Đảng chỉ rõ trong Văn kiện Đại hội XIII: “phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”(20).
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội không có thiết chế riêng nhưng nó tồn tại đan xen trong mọi lĩnh vực và nó có chức năng giáo dục, điều chỉnh hành vi con người hướng tới chân, thiện, mỹ. Việc xây dựng giá trị, chuẩn mực đạo đức nhất là đạo đức cán bộ cũng được Đảng ta quan tâm: “Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng. Tăng cường đấu tranh các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội”(21).
Bối cảnh đất nước ta hiện nay còn nhiều khó khăn, thử thách: Nạn tham nhũng vẫn cần phải được khắc phục triệt để; một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội vẫn chưa đạt được, biến đổi khí hậu và những hậu quả của nó vẫn nặng nề, đại dịch Covid-19 diễn biến khó lường… Các thế lực thù địch lợi dụng tình hình phức tạp vẫn tìm cách chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta. Trước thực tiễn này, việc khẳng định lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như vận dụng nội dung các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII vào giảng dạy triết học Mác - Lênin có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần đưa Nghị quyết vào thực tiễn./.
________________________________________
(1) C.Mác và Ph.Ănghen (1994), Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, T.20, tr.489.
(2), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (17), (18), (19), (20), (21) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG, Hà Nội, tr.33, 33-34, 44, 45, 129-130, 46, 39, 105-106, 112, 128, 128-129, 226 - 227, 53, 96, 216, 202, 116, tr.184.
(3) V.I.Lênin (1974), Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Matxcơva, T.1, tr.162.
(16) Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, T.5, tr.295.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông tháng 8 năm 2021
Bài liên quan
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
- Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
- Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
- Đôi nét về triết học ngoài mác-xít hiện đại
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực không những góp phần đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng mà còn góp phần đảm bảo phúc lợi cho người lao động. Vì thế, trong quá trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực – yếu tố then chốt để Việt Nam đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển toàn diện, nhanh và bền vững. Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của nguồn nhân lực, Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã có những chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và đã đạt được những kết quả tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Song, bên cạnh những thành tựu, vẫn con những hạn chế nhất định, vì vậy, cần xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng yếu tố quyết định thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lợi thế cạnh tranh của tỉnh hiện nay trong thời gian tới.
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, mặc dù không để lại những tác phẩm chuyên nghiên cứu về quản lý phát triển xã hội, nhưng qua các tác phẩm về kinh tế - chính trị, chính trị - xã hội của các ông, có thể rút ra những luận điểm cơ bản về quản lý phát triển xã hội. Các luận điểm này giúp các nhà quản lý xã hội thấy được bức tranh toàn cảnh xã hội một cách duy vật, cụ thể, với tính cách là kết quả hoạt động thực tiễn xã hội của con người.
Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
Sau khi hai tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau chuyển bị về mặt lý luận cho Cách mạng dân chủ tư sản Pháp ra đời người ta thường nói đến thuộc tính pháp quyền gắn liền với nền dân chủ tư sản, người ta nói đến nhà nước pháp quyền tư sản, hệ thống dân chủ tư sản. Đến chủ nghĩa xã hội thì thuộc tính pháp quyền này lại ít được nhắc đến. Liệu chủ nghĩa xã hội có mang thuộc tính pháp quyền hay không và thuộc tính pháp quyền này khác với thuộc tính pháp quyên dân chủ tư sản như thế nào?
Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, lần đầu tiên vấn đề nhà nước được V.I.Lênin trình bày một cách có hệ thống. Giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm là đã làm sáng tỏ tính quy luật trong sự sinh thành, vận động và phát triển, đưa ra những dự báo khoa học về xu hướng và điều kiện về sự tự tiêu vong của nhà nước trong tiến trình tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị khoa học, cách mạng và tính thời sự. Trong tình hình hiện nay, nắm vững thực chất và vận dụng tư tưởng của tác phẩm là cơ sở vững chắc để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vừa là nhiệm vụ thường xuyên, vừa là công việc lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp bởi “đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất của giai cấp vô sản”(1). Bài viết nghiên cứu tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, phân tích ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc và vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin vào cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng ở nước ta hiện nay.
Bình luận