Báo chí thời trí tuệ nhân tạo
Từ nhận dạng tiếng nói
Đã có hàng trăm ngôn ngữ trên thế giới được đưa vào các phần mềm nhận dạng, trong đó có tiếng Việt. Một nhà báo Việt Nam hiện nay có thể viết tin bài bằng giọng nói khi chạy xe trên đường hoặc trong điều kiện thời sự gấp gáp với một tác phẩm dài hàng ngàn chữ. Tốc độ viết ra chữ bằng giọng nói của các ứng dụng này phụ thuộc vào tốc độ đường truyền Internet và độ chính xác của việc nhận dạng tùy thuộc vào giọng đọc cũng như tốc độ đọc.
Trên bàn phím ảo dùng nhập văn bản của điện thoại di động thông minh, chúng ta sẽ nhìn thấy biểu tượng một chiếc micro, nhấn vào đó và nói. Dòng văn bản sẽ xuất hiện gần như đồng thời nếu đường truyền Internet mạnh. Càng ngày, khả năng nhận dạng tiếng Việt của ứng dụng này càng được cải thiện.
Trong cuộc tranh luận trên truyền hình giữa hai ứng cử viên Tổng thống Mỹ năm 2016, khi tín hiệu hình ảnh được truyền trực tiếp trên Youtube, dòng chữ phụ đề cũng được hiển thị gần như đồng thời nhờ phần mềm nhận dạng này.
Ứng dụng nhận dạng giọng nói giúp chúng ta có thể văn bản hóa lời nói được ghi âm hoặc lời nói phát ra từ radio, tivi. Phần mềm hết sức tiện lợi trong đời sống, sinh hoạt và càng ngày càng hoàn thiện để phục vụ nhân loại.
Đến dịch thuật
Máy dịch là công cụ trí tuệ nhân tạo được xây dựng khá lâu và ngày nay, trong thời đại có sự cộng tác đại chúng, có thể nói, các công cụ dịch đã tiến hóa đến mức hoàn hảo. Chúng ta vẫn thường biết đến công cụ dịch miễn phí Google Translate trên mạng, nhưng thực tế, có những phần mềm dịch chuyên nghiệp được bán có chất lượng cao hơn hẳn.
Nhiều cơ quan báo chí, hãng thông tấn nước ngoài từ lâu đã ứng dụng máy dịch vào việc làm tin quốc tế. Tất nhiên, bên cạnh máy dịch vẫn còn có những biên tập viên nhưng nếu có công cụ này, hiệu suất công việc có thể tăng lên rất nhiều.
Bên cạnh việc giúp nhà báo xử lý được số lượng tin bài lớn và nhanh, máy dịch giúp tránh những lỗi, sơ sót con người thường mắc phải và thống nhất được cách dịch đối với những cụm từ, tên riêng nhất định, thống nhất cách viết hoa v.v..
Phần mềm dịch thuật miễn phí được Google tích hợp trên Internet cũng được nhiều sinh viên, nhà nghiên cứu ở Việt Nam tận dụng, nhưng có vẻ như lâu nay, phần mềm này chưa được sự cộng tác của số đông người Việt Nam nên chưa thực sự hoàn thiện. Trong khi đó, Google Translate đã làm việc khá tốt trong quá trình dịch từ tiếng Nhật qua tiếng Anh và ngược lại. Đã có một giáo sư thử nghiệm đưa hai đoạn dịch khác nhau của một tác phẩm nổi tiếng ở Nhật Bản lên mạng xã hội để khảo sát xem, công chúng nhận ra đâu là bản dịch của máy. Nhưng số đông đã đoán sai. Nói cách khác, phần mềm dịch miễn phí của Google ngày càng hoàn thiện hơn rất nhiều.
Google Translate đã trở thành một hệ thống hoàn toàn dựa trên trí tuệ nhân tạo để xử lý hầu hết luồng truy cập. Hệ thống hàng trăm ngôn ngữ đang tiếp tục được bổ sung với tốc độ 8 ngôn ngữ mỗi tháng cho đến cuối năm 2017. Có chuyên gia nói rằng: Hệ thống trí tuệ nhân tạo này có thể đưa vào những cải thiện qua một đêm tương đương những gì mà hệ thống cũ phải làm trong nhiều năm.
Robot có thể viết báo?
Trong vài năm gần đây, hình ảnh những chiếc xe tải không người lái ở Úc, xe giao hàng không người lái ở Mỹ... vận hành xuất sắc trong đời sống thực không còn làm ngạc nhiên nhiều người. Các ứng dụng trí tuệ nhân tạo đã đi vào nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội: từ vận hành máy móc đến chẩn đoán bệnh tật; từ điều khiển ngôi nhà thông minh đến nhận dạng gương mặt, giọng nói, chữ viết; từ trả lời khách hàng đến đặt lịch, lên kế hoạch...
Có nhiều dạng ứng dụng trí tuệ nhân tạo người Việt Nam đã sử dụng, song không để ý. Phần mềm hướng dẫn đường đi trên ứng dụng Google Map có thể đưa ra thông báo bằng tiếng Việt cho tài xế xe hơi, trợ lý ảo Siri trên iPhone, iPad là những ví dụ. Ứng dụng robot trong dây chuyền sản xuất công nghiệp tự động hóa, khai thác mô hình “nhà máy thông minh” ở Việt Nam cũng đang có xu hướng phát triển mạnh.
Nhưng đối với nhà báo, chuyện nghe “choáng” nhất vẫn dùng robot thông minh làm báo cáo và... viết báo.
Cách đây hai năm, robot Toutiao của Trung Quốc đã sản xuất ra tới 450 tin trong 15 ngày diễn ra Olympic Rio 2016, tập trung vào các môn cầu lông và bóng bàn. Các tin này chỉ có độ dài khoảng 100 từ. Tin được đọc nhiều nhất là trận đơn nữ cầu lông mà phần thắng thuộc về Wang Yihan, người từng giành Huy chương Bạc tại Olympic London. Tin này hoàn thành chỉ 2 phút sau khi kết thúc trận đấu và có 50.000 lượt đọc.
Báo chí tự động hóa (hay báo chí robot) đang có những bước phát triển mới nhờ các việc tìm ra nhiều thuật toán có thể xử lý những khối dữ liệu khổng lồ. Năm ngoái, trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, trang PollyVote.com chạy một thuật toán, sử dụng nguyên tắc dự báo dựa trên dữ liệu, bằng chứng được liên tục đưa vào một hệ thống. Và thuật toán PollyBot đã viết và xuất bản hàng ngàn tin bài vào các trang web báo chí...
Robot báo chí giờ đây có thể tạo ra Infographic, đề xuất đề tài, xác minh thông tin từ công chúng truyền thông, xử lý nhanh thông báo về các sự kiện có tính chất báo chí trên diện rộng...
Bản chất của việc xử lý dữ liệu lớn (big data) ở các mạng xã hội để phân phối tin tức, quảng cáo đến đúng đối tượng cũng dựa vào trí tuệ nhân tạo.
Với xu thế khai thác trí tuệ nhân tạo trong cách mạng công nghiệp 4.0, không chỉ lao động chân tay mà lao động trí óc cũng có nguy cơ bị thay thế. Nghề báo cũng sẽ bị trí tuệ nhân tạo đe dọa bởi một lý do rất đơn giản: máy móc rất phù hợp cho những thông tin được phân loại. Nếu có thể sắp xếp mọi thông tin lên một bảng Excel thì cho dù nó phức tạp ra sao, trí tuệ nhân tạo cũng có thể phân tích và tạo ra những mẩu thông tin có ý nghĩa.
Ảnh minh họa
Cơ hội hay thách thức?
Cuối năm 2016, Tập đoàn phần mềm nổi tiếng Adobe công bố một dự án mới của họ có tên là Adobe VoCo. Đây là một ứng dụng chỉnh sửa được giọng nói con người. Hiểu nôm na, tính năng của phần mềm này là dựa vào mẫu giọng nói của một người cụ thể, máy có thể đọc các văn bản mình gán vào bằng chính giọng của người ấy để tạo ra các file âm thanh.
Dự án Adobe VoCo này được các chuyên gia gọi là “Photoshop lời nói”. Khi nó mới được công bố, rất nhiều người bày tỏ lo ngại về chuyện ứng dụng này sẽ tác động tới an ninh (các mật mã sử dụng giọng nói), tới tin tức giả (tạo ra chứng cớ âm thanh giả) nên đã phản đối gay gắt. Và đến nay, dự án này phải tạm thời dừng lại.
Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ đem đến những phát triển lớn cho nhân loại, nhưng sự phát triển của trí tuệ nhân tạo gần đây cũng dấy lên làn sóng lo xa như những chuyện trong các bộ phim viễn tưởng: loài người có bị tận diệt không? Lo... ít xa hơn thì đặt vấn đề bất ổn chính trị xuất phát từ những vấn đề kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, mỗi một khi con người đã dự báo được sẽ có những giải pháp hạn chế mặt trái. Trí tuệ nhân tạo sẽ không thể thay thế con người mà chỉ hỗ trợ họ làm việc hiệu quả hơn, đưa ra những quyết định đúng đắn hơn. Dù có lo nhưng ai cũng cho rằng, xu thế công nghiệp 4.0 là tất yếu và con đường phía trước vẫn còn quá dài để nhân loại có thể tìm biện pháp thích hợp. Có trí tuệ nhân tạo, thế giới sẽ tốt đẹp hơn, hiệu quả hơn, con người được giải phóng để theo đuổi những công việc sáng tạo, nhân văn và thú vị hơn. Đó không chỉ là mơ ước./.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Người Làm Báo điện tử ngày 22.02.2018
Phan Văn Tú
Nguồn: http://nguoilambao.vn
Bài liên quan
- Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
- Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
- Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
- Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
- Truyền thông về an ninh mạng tại hệ thống ngân hàng ở Việt Nam trong môi trường chuyển đổi số hiện nay
Xem nhiều
-
1
Xây dựng khung đạo đức và quản trị trí tuệ nhân tạo (AI) trong truyền thông chính sách tại Việt Nam
-
2
Nâng cao năng lực số cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam hiện nay
-
3
Xử lý khủng hoảng của doanh nghiệp sản xuất và phân phối thực phẩm chế biến sẵn tại Việt Nam
-
4
Các xu hướng sáng tạo nội dung truyền thông marketing hiện nay
-
5
Nâng cao chất lượng hoạt động của Đảng ủy phường Yên Bái, tỉnh Lào Cai hiện nay
-
6
Giới thiệu Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 năm 2025
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Thiêng liêng cao quý chữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc"
Từ mùa thu năm 1945 lịch sử đến hôm nay, cụm từ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” vẫn vang vọng như một lời thề thiêng liêng, bất biến của dân tộc Việt Nam. Đó không chỉ là dòng chữ trang trọng nơi đầu mỗi văn bản, mà là mục tiêu sống, là giá trị cốt lõi được xây đắp bằng máu xương của bao thế hệ. Nhìn lại chặng đường phát triển đất nước, chúng ta càng thấm thía giá trị hòa bình, càng nhận rõ trách nhiệm giữ gìn, phát huy để thế hệ hôm nay và mai sau thực sự được sống trong độc lập, được thụ hưởng tự do, được trọn vẹn hạnh phúc.
Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
Trong bối cảnh tự chủ đại học và cạnh tranh tuyển sinh, truyền thông thương hiệu của cơ sở đào tạo không chỉ là quảng bá mà còn là cơ chế kiến tạo trải nghiệm nhất quán cho người học. Bài viết sử dụng khung CBBE (giá trị thương hiệu dựa trên khách hàng) và tiếp cận IMC (truyền thông tích hợp) để mô tả hệ điểm chạm và thảo luận hàm ý tác động tới giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại khối trường kỹ thuật ở Hà Nội. Đóng góp thực tiễn của nghiên cứu là cung cấp căn cứ để các trường kỹ thuật nâng chất lượng truyền thông, mở rộng tiếp cận và bồi dưỡng gắn bó bền vững của sinh viên.
Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
Trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, Facebook không chỉ là không gian giao tiếp mà còn là kênh tiếp nhận và lan tỏa thông tin báo chí quan trọng. Việc nghiên cứu hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng này của sinh viên hệ 9+ - nhóm học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở, đang theo học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, là lực lượng lao động trẻ đang trưởng thành trong môi trường số có ý nghĩa thiết thực: giúp sinh viên nâng cao năng lực chọn lọc, phân tích và phản biện thông tin, hình thành thói quen sử dụng mạng xã hội có trách nhiệm; đồng thời, giúp các cơ quan báo chí hiểu rõ hơn về nhu cầu, thói quen và xu hướng truyền thông của nhóm công chúng trẻ, từ đó, đổi mới nội dung và phương thức truyền thông số, góp phần xây dựng hệ sinh thái thông tin mạnh trong kỷ nguyên số. Bài viết đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng Facebook của sinh viên hệ 9+ hiện nay.
Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, các bệnh viện công (BVC) tại Việt Nam phải đối mặt với những thách thức đặc thù trong quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu (TTTH). Hoạt động này không chỉ nhằm mục đích quảng bá mà còn là công cụ chiến lược để xây dựng niềm tin xã hội và thực thi sứ mệnh y tế cộng đồng. Sử dụng Bệnh viện Nhi Trung ương (BVNTW) làm trường hợp nghiên cứu điển hình, bài viết phân tích thực trạng quản trị hoạt động TTTH trên các phương tiện truyền thông số thông qua khảo sát thực tiễn và phỏng vấn chuyên sâu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, BVNTW đạt được sự cam kết chiến lược mạnh mẽ từ ban lãnh đạo và độ tin cậy cao từ công chúng. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra những mâu thuẫn mang tính hệ thống. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một hệ thống giải pháp chiến lược, bao gồm việc xây dựng khung đo lường hiệu suất đa tầng, tối ưu hóa quy trình theo mức độ rủi ro và quản trị trải nghiệm thương hiệu đồng bộ, nhằm nâng cao hiệu quả quản trị TTTH tại các bệnh viện công.
Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
Bài viết khái quát tác động của truyền thông về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) đối với niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng trong bối cảnh truyền thông số. Dựa trên các khung lý thuyết nền tảng như Lý thuyết trao đổi xã hội (SET), mô hình Kích thích - Tổ chức - Đáp ứng (S - O - R) và Thuyết hành vi có kế hoạch (TPB), bài viết khẳng định, truyền thông CSR, đặc biệt qua báo chí điện tử và nền tảng mạng xã hội, có ảnh hưởng tích cực đến nhận thức, thái độ và hành vi tiêu dùng. Truyền thông CSR nhất quán, minh bạch không chỉ trực tiếp tác động đến ý định mua mà còn gián tiếp thông qua việc củng cố niềm tin thương hiệu, biến trung gian có tính quyết định trong quá trình hình thành hành vi tiêu dùng. Niềm tin thương hiệu được xem như một dạng vốn tâm lý và vốn biểu tượng của doanh nghiệp, giúp giảm thiểu rủi ro cảm nhận, tăng cam kết và duy trì lòng trung thành khách hàng. Dù còn có sự khác biệt trong nhận định của các nhà nghiên cứu nhưng phần lớn đều khẳng định vai trò chiến lược của truyền thông CSR trong việc kiến tạo lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị thương hiệu và hướng tới phát triển bền vững.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận