Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Chứng kiến và nhận thức rõ những bất công của chế độ thực dân ở Việt Nam, trong đó có việc chúng lợi dụng, bóc lột sức lao động, tước đi quyền được học tập, quyền được phát triển trí tuệ của trẻ em, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án chế độ thực dân: “Những khổ đau của các nhân dân thuộc địa bị áp bức bắt đầu từ khi họ ra đời. Trẻ em cũng chịu đau khổ vì sự bất công xã hội chẳng khác gì người lớn”(2). Cho nên, trong hành trình bôn ba khắp năm châu bốn biển, người thanh niên Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc không chỉ quan tâm tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc mà còn chú ý tìm hiểu về quyền con người nói chung và quyền của trẻ em nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho các cháu thiếu niên, nhi đồng tình thương yêu và quan tâm đặc biệt. Với Người, trẻ em là những mầm non, cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục về mọi mặt, sức khỏe, học tập, vui chơi, giải trí. Đây chính là sứ mệnh vẻ vang “vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu bé cho tốt”(3), góp phần quan trọng vào công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, tạo động lực cho sự phát triển, đưa đất nước tiến tới dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhằm tạo môi trường thuận lợi cho trẻ em phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò to lớn của giáo dục mầm non, xem đây là nền tảng cho việc học tập và thành công sau này của trẻ, Người chỉ rõ: “Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế thì trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ, chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt”(4). Về nội dung giáo dục, Người cũng nhắc nhở nhiều lần: “Cần chú trọng hơn nữa về mặt đức dục. Dạy cho các cháu đạo đức cách mạng, biết yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu khoa học, yêu lao động và người lao động, thật thà, dũng cảm, sẵn sàng tham gia lao động và bảo vệ Tổ quốc”(5). Về phương pháp giáo dục, Người nêu rõ dạy trẻ em học “phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn”(6). Đặc biệt, “khi giáo dục phải thiết thực không được làm cho các cháu thành những “con vẹt”, làm sao cho các cháu khi chơi là được học, mà trong khi học vui vẻ như được chơi”(7). Đây là “việc CHUNG của gia đình, trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách; trước hết là phải làm gương mẫu cho các em trước mọi việc”(8). Vì gia đình, nhà trường là nơi có ảnh hưởng trực tiếp tới sự định hình, phát triển nhân cách của con người; xã hội là nơi thử thách, đánh giá sự trưởng thành của nhân cách đó. Cho nên, mỗi trẻ em nếu có được sự quan tâm đúng mức từ ba môi trường này, nhất là từ gia đình thì tất yếu sẽ có điều kiện phát triển lành mạnh để hình thành, phát triển nhân cách tốt cho trẻ.
Người yêu cầu đối với trẻ em là phải giáo dục thế nào cho các cháu “biết đoàn kết, ham học, ham làm, nhưng phải làm sao cho các cháu giữ được tính chất của trẻ con. Phải làm sao cho trẻ em có kỷ luật nhưng vẫn vui vẻ, hoạt bát chứ không phải là khúm núm, đặt đâu ngồi đấy”(9). Giáo dục các em trở thành những người biết: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu quý của công. Chúng ta phải khéo nuôi dạy, giúp cho nhi đồng phát triển sức khoẻ và trí óc, thành những trẻ em có “4 tính tốt”: hoạt bát, mạnh dạn, chất phác, thật thà”(10). Ngoài việc học, Người cũng yêu cầu: “cần hướng dẫn các em chơi vui một cách tập thể và có văn hóa như hát, múa, làm kịch, cắm trại... Và khuyến khích các em tham gia việc tăng gia sản xuất, thăm viếng thương binh, giúp đỡ gia đình liệt sĩ...”(11), đào tạo trẻ em thành những công dân có ích cho xã hội trên tinh thần “tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”(12).
Quan điểm nhất quán về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được thể chế hóa thành quyền trẻ em trong đạo luật cơ bản đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được quy định rõ trong Hiến pháp năm 1946: “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp”(13). Đây là những quy định mang tính pháp lý cao nhất lúc bấy giờ, khẳng định quyền được học tập, quyền được vui chơi, quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam. Bên cạnh việc khẳng định quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em, những lợi ích mà trẻ em được hưởng thụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm của trẻ em. Trong thư gửi thiếu niên, nhi đồng toàn quốc nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Đội Thiếu niên Tiền phong, ngày 15-5-1961, Người nêu rõ 5 điều: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào/ Học tập tốt, lao động tốt/ Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt/ Giữ gìn vệ sinh/ Thật thà, dũng cảm”(14).
Việc gắn liền quyền với trách nhiệm của trẻ em, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần phải từng bước nâng cao ý thức tự giác của trẻ em để phát huy mọi khả năng của các em, để trau dồi kiến thức, phẩm chất đạo đức của mình phục vụ cho Tổ quốc. Theo Người: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”(15). Đây chính là kỳ vọng, mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thế hệ tương lai của Việt Nam, trở thành động lực thôi thúc các em phấn đấu, rèn luyện, trau dồi kiến thức, kỹ năng góp phần vào công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Như vậy, quan điểm về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước ta hoàn thiện cơ sở pháp lý và hiện thực hóa quyền của trẻ em. Hiện nay, về cơ bản, nước ta có một hệ thống pháp luật về quyền trẻ em tương đối đầy đủ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hài hòa với pháp luật quốc tế và ứng phó kịp thời với những mối quan hệ xã hội mới, tạo hành lang pháp lý toàn diện nhằm bảo vệ và thực hiện quyền trẻ em ở mức cao nhất.
Hành động vì trẻ em
Nhận thức sâu sắc về vai trò của trẻ em đối với tương lai, vận mệnh của đất nước: “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy, chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ”(16), nên Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất để trẻ em được phát triển toàn diện, có môi trường sống an toàn, lành mạnh.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, cùng với nhiều chính sách kinh tế, xã hội được ban hành, Nhà nước ta đã phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, ngày 20/2/1990. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước này. Điều đó đã làm thay đổi khá nhanh nhận thức và hành động đối công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở Việt Nam, theo đó: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình, xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”(17). Trên tinh thần ấy, quyền được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và các quyền khác của trẻ em tiếp tục được thể chế hóa trong các văn bản luật và các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương(18) phù hợp với công ước quốc tế và truyền thống văn hoá của dân tộc, đặc biệt là đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay và phát huy đầy đủ quyền của trẻ em.
Hệ thống bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cấp quốc gia được thành lập từ rất sớm, với nhiều hoạt động ý nghĩa và thiết thực, điển hình như Quỹ Bảo trợ trẻ em, là quỹ duy nhất của Nhà nước được thành lập từ ngày 4/5/1992 theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (nay sửa đổi là Luật Trẻ em 2016), có chức năng vận động sự đóng góp tự nguyện của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở trong nước và nước ngoài, viện trợ quốc tế và hỗ trợ của ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết để thực hiện các mục tiêu về trẻ em được Nhà nước ưu tiên. Quỹ hoạt động theo phương châm “tận tâm - minh bạch - kịp thời - cùng tham gia”. Sau 30 năm hoạt động, hệ thống Quỹ Bảo trợ trẻ em đã vận động gần 7.610 tỷ đồng, hỗ trợ hơn 34 triệu lượt trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn(19). Nhiều chương trình hoạt động của quỹ đã thể hiện sức sáng tạo, tận tâm, tiên phong vì cộng đồng, vì cuộc sống tốt đẹp cho trẻ em. Tiêu biểu như chương trình “Mùa xuân cho em”, “Phẫu thuật nụ cười”, “Cùng em đến trường”, “Vì trái tim trẻ thơ”… đã hỗ trợ nhiều mặt cho các em từ thể chất lẫn tinh thần, giúp các em tiếp cận với các điều kiện để phát triển toàn diện. Hoạt động của Quỹ trải dài trên khắp mọi miền Tổ quốc, đặc biệt ưu tiên cho những trẻ em còn thiệt thòi, khó khăn, thiếu thốn về nhiều mặt trong cuộc sống. Hay, Tổng đài Quốc gia bảo vệ trẻ em có đường dây nóng là 111 (do Cục trẻ em thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý). Sau 19 năm hoạt động (từ năm 2004 - 2023) đã tiếp nhận 5.398.105 cuộc gọi đến, trong đó, đã tư vấn 469.408 cuộc gọi và hỗ trợ, can thiệp cho 9.601 ca trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực, bị mua bán, bị bóc lột, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và vi phạm quyền trẻ em(20). Tổng đài còn tư vấn tâm lý, pháp luật, chính sách cho trẻ em, cha mẹ, thành viên gia đình, người chăm sóc trẻ em. Lưu trữ, phân tích, tổng hợp thông tin để cung cấp, thông tin, thông báo, tố giác khi có yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đối với vụ việc xâm hại trẻ em và các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em.
Ngoài ra, các hoạt động truyền thông vận động xã hội nhằm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện, tạo sự chuyển biến tích cực về cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; đồng thời, chất lượng phúc lợi xã hội dành cho trẻ em được nâng cao. Nhiều mô hình hỗ trợ can thiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em tại cộng đồng đã thu hút các tổ chức kinh tế, xã hội, nhà chuyên môn, cá nhân trong và ngoài nước tham gia. Sự tham gia rộng rãi đó đã hình thành nên nhiều phong trào có ý nghĩa thiết thực, như: phong trào “Người lớn gương mẫu, trẻ em chăm ngoan”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, “Tháng hành động vì trẻ em”, “Toàn dân đưa trẻ đến trường”, “Toàn xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”, “Đỡ đầu trẻ em mồ côi không nơi nương tựa”, “Lớp học tình thương”, “Nhà mái ấm”, “Lớp dạy nghề”, “Học bổng cho trẻ em nghèo hiếu học”, “Quỹ xe đạp chở ước mơ”, “Sóng và máy tính cho em”… Thông qua các phong trào, trách nhiệm, nghĩa vụ của gia đình, nhà trường và xã hội đối với trẻ em được thể hiện rõ nét và đạt kết quả thiết thực. Để huy động nguồn lực trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án, dự án trợ giúp, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong những năm qua, Việt Nam đã tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, như WHO, ILO, UNICEF, World Vision, Plan, Save the Children, ChildFund..., đồng thời cũng tích cực trong việc thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến trẻ em.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em còn một số hạn chế, bất cập, đó là: Một số địa phương và cơ quan chức năng chưa nhận thức đầy đủ, chưa thực sự quan tâm đến trẻ em; nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chậm được đổi mới, chưa phù hợp với một số nhóm đối tượng, đặc điểm địa bàn dân cư, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý các hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em chưa được tiến hành thường xuyên, kịp thời; nguồn nhân lực làm công tác trẻ em còn thiếu về số lượng, kiêm nhiệm nhiều việc và thường xuyên thay đổi, một bộ phận còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác; việc phối hợp giữa chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức và gia đình về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong nhiều trường hợp vẫn còn bị động…
Ươm mầm xanh cho đất nước - chiến lược lâu dài và toàn diện
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Thực hiện đầy đủ quyền trẻ em, tạo môi trường lành mạnh, thuận lợi để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và mối quan hệ xã hội. Tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em, kiểm soát tình hình tai nạn, bạo lực, xâm hại trẻ em”(21). Để nghị quyết đi vào cuộc sống, xây dựng môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ em được phát triển toàn diện, cần thực hiện một số giải pháp:
Thứ nhất, các bộ, ngành chức năng tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm thực hiện quyền trẻ em. Trong đó, cần bổ sung các chính sách trợ giúp nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em dân tộc thiểu số và miền núi, trẻ em trong các hộ gia đình nghèo, cận nghèo, trẻ em di cư và trong các gia đình công nhân tại các khu công nghiệp, trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác truyền thông đến toàn xã hội, tập trung vào các đối tượng là cha mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ về kiến thức, kỹ năng, hỗ trợ, định hướng cho trẻ em. Cơ quan truyền thông từ Trung ương đến địa phương cần mở thêm các chuyên trang, chuyên mục với thời lượng và khung giờ phù hợp với trẻ em nhằm hướng dẫn kiến thức, kỹ năng phòng, chống xâm hại trẻ em; thông tin, tuyên truyền trên môi trường mạng Internet, mạng xã hội; cung cấp thông tin, kỹ năng phòng, chống xâm hại trẻ em cho các bậc cha, mẹ học sinh. Các cơ sở giáo dục và đào tạo các cấp, đặc biệt là cấp học mầm non và tiểu học cần lồng ghép vào chương trình giáo dục các nội dung trang bị kiến thức về giới tính, hướng dẫn trẻ em nhận biết các nguy cơ bị xâm hại, kỹ năng phòng tránh, bảo vệ bản thân.
Thứ ba, phát triển các mạng lưới, mô hình cung cấp dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em có sự phối hợp, chuyển tuyến liên ngành, liên cấp theo hình thức dịch vụ một cửa và các gói dịch vụ tiếp cận trẻ em, cha mẹ và người chăm sóc trẻ em tại gia đình và cộng đồng. Bồi dưỡng, tập huấn nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng tuyên truyền, tương tác trên môi trường mạng xã hội cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, giáo viên các trường học, đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Đồng thời, mở rộng mạng lưới cộng tác viên bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở vùng nông thôn và miền núi.
Thứ tư, các bộ, ngành, địa phương chuyên trách công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện đúng và đầy đủ các kế hoạch, chương trình hành động vì trẻ em do Trung ương ban hành, như: Quyết định số 1863/QĐ-TTg, ngày 23/12/2019, của Thủ tướng Chính phủ, về “Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em, giai đoạn 2020 - 2025”; Chỉ thị số 23/CT-TTg, ngày 26/5/2020, của Thủ tướng Chính phủ, “Về tăng cường các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em”… Đồng thời, giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về trẻ em; đôn đốc việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của trẻ em, cha mẹ, người giám hộ, tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em.
Thứ năm, tích cực hội nhập và hợp tác quốc tế về quyền trẻ em, áp dụng sáng tạo các giải pháp, kinh nghiệm, mô hình của các quốc gia, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc thực hiện quyền trẻ em. Tạo điều kiện thuận lợi để huy động các nguồn lực của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia vào các hoạt động trợ giúp, chăm sóc, bảo vệ trẻ em./.
________________________________________________________________________
(1) Hồ Chí Minh (2011),Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.15, tr. 579
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.2, tr. 434
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.15, tr. 579
(4), (9) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.12, tr. 286,77
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.14, tr. 746
(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.10, tr. 186
(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.12, tr. 77
(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T10, tr. 175
(10), (11) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.9, tr. 500
(12) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.7, tr. 499
(13) Điều 15, Hiến pháp năm 1946
(14) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.13, tr. 131 - 132
(15) Hồ Chí Minh,Toàn tập, Sđd, T.4, tr. 35
(16) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.15, tr. 579
(17) Điều 37, chương II, Hiến pháp năm 2013
(18) Chỉ thị 20-CT/TW, ngày 5/11/2012, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới”; Quyết định số 2361/QĐ-TTg, ngày 22/2/2015, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016 - 2020”; Luật Trẻ em năm 2016; Quyết định số 1863/QĐ-TTg, ngày 23/12/2019, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em, giai đoạn 2020-2025”; Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 26/5/2020, của Thủ tướng Chính phủ, “Về tăng cường các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em”; Quyết định số 23/QĐ-TTg, ngày 7/1/2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021 - 2030”…
(19) Đăng Doanh: “Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam: hành trình 30 năm kết nối yêu thương vì trẻ em Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã hội, ngày 29/4/2022, https://tapchilaodong.vn/quy-bao-tro-tre-em-viet-nam-hanh-trinh-30-nam-ket-noi-yeu-thuong-vi-tre-em-viet-nam-1323291.html
(20) Xem: Tổng đài Quốc gia bảo vệ trẻ em 111: “Báo cáo số liệu 19 năm hoạt động của Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em 111”, ngày 22/5/2023, http://tongdai111.vn/tin/bao-cao-so-lieu-19-nam-hoat-dong-cua-tong-dai-quoc-gia-bao-ve-tre-em-111
(21) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, T.1, tr. 271
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 30/10/2023
Bài liên quan
- Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
- Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
- Tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp cận từ góc độ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất, Người đã để lại di sản quý báu về tư tưởng, đạo đức, phong cách cho Đảng và Nhân dân ta. Di sản Hồ Chí Minh bao quát rộng lớn các vấn đề của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến lời dạy của Người trong Thư gửi “Quân nhân học báo” tháng 4/1949: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(1) là vấn đề có ý nghĩa thời sự đối với việc nghiên cứu, học tập của cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên làm công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng hiện nay.
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử đặc biệt, có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn, hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc về xây dựng Đảng cầm quyền, đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trải qua 55 năm, di huấn của Người về vấn đề này vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và thời đại.
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Suy ngẫm tư tưởng Hồ Chí Minh về “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” và nghiên cứu Điều 3 Quy định số 144 để thấy được bước phát triển của Đảng về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
Bình luận