Cần nhận thức toàn diện nội dung xây dựng Đảng về đạo đức theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
Vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức đã được Đảng ta quan tâm từ nhiều kỳ đại hội và chính thức được đặt ra tại Đại hội lần thứ XII của Đảng. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, tích cực tổ chức thực hiện, tạo được những chuyển biến về đạo đức của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Tuy nhiên, số lượng tổ chức đảng và đảng viên vi phạm đạo đức vẫn còn nhiều, hành vi suy thoái đạo đức ngày càng đa dạng, tinh vi, phức tạp; phạm vi và mức độ suy thoái ngày càng nghiêm trọng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định một trong những quan điểm chỉ đạo của Đảng là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh một cách toàn diện, trong đó có tăng cường và nâng cao hiệu quả xây dựng Đảng về đạo đức. Quan điểm đó là sự tiếp nối Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng nói chung và xây dựng Đảng về đạo đức nói riêng. Tuy nhiên, khi vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay, cần nhận thức rõ xây dựng Đảng về đạo đức bao gồm những nội dung gì? Chỉ có nhận thức được đầy đủ chúng ta mới có cơ sở xác định các chủ thể và các giải pháp xây dựng Đảng về đạo đức một cách hiệu quả.
Trước đây, khi nói đến đạo đức trong Đảng, chúng ta mới chỉ quan tâm đến việc xây dựng, củng cố những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên như: Trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; thương yêu con người, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là một nội dung rất quan trọng nhưng chưa đầy đủ. Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh có thể thấy, Người không chỉ đề cập đến đạo đức của cán bộ, đảng viên với tư cách là thành viên của tổ chức mà Người còn quan tâm đến đạo đức của tổ chức đảng, nơi mà mỗi cá nhân in đậm dấu ấn của mình, thể hiện tư duy, đạo đức và hành động của mình. Do đó, vận dụng tư tưởng của Người, bên cạnh việc xây dựng đạo đức của cán bộ, đảng viên còn cần phải chú trọng đến xây dựng đạo đức của tổ chức đảng. Có thể lý giải điều này như sau:
Về quan niệm
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm hệ thống các quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh nhận thức, hành vi và đánh giá cách ứng xử của cá nhân và của tập thể, tổ chức trong quan hệ với nhau, quan hệ với xã hội và quan hệ với giới tự nhiên để bảo vệ lợi ích của cá nhân và của cộng đồng, đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững.
Đạo đức dưới khía cạnh là hành vi đạo đức, là hành động của cá nhân thể hiện quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác, thể hiện lương tâm hoặc bổn phận của cá nhân trong những hoàn cảnh khác nhau. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không chỉ nói đến đạo đức cá nhân, mà Người còn nói đạo đức của cộng đồng, đạo đức của tổ chức. Người nhắc đến đạo đức của dân tộc: “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình và bác ái” hay “Một dân tộc đã tự cường, tự lập, dân chủ cộng hoà thì không làm những việc nhỏ nhen, báo thù báo oán” và “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Nói về đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam, người nói đến “tư cách của đảng chân chính cách mạng” và chỉ ra những tiêu chỉ cụ thể để đánh giá tính chân chính của tổ chức đảng. Đây là nét sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh trong quan niệm về đạo đức.
Như vậy, về mặt nhận thức, Hồ Chí Minh không chỉ quan niệm xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng các chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên, Người còn quan tâm đến các chuẩn mực đạo đức của tổ chức đảng. Hay nói cách khác, xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng các quy tắc, chuẩn mực đạo đức của người đảng viên cộng sản và của tổ chức đảng chân chính cách mạng trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa đạo đức nhân loại. Đạo đức cách mạng là một nền đạo đức mang tính nhân văn và tiến bộ. Do đó, nếu xây dựng Đảng mà chỉ quan tâm đến đạo đức của cá nhân cán bộ, đảng viên, bỏ qua đạo đức của tổ chức đảng sẽ là chưa toàn diện.
Về nội dung
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã chỉ ra mối quan hệ giữa đạo đức của tổ chức đảng và đảng viên. Người nêu câu hỏi: “Đảng là ai” và Người trả lời: “Đảng là mỗi chúng ta", “Lãnh đạo là làm đầy tớ nhân dân và phải làm cho tốt”. Cán bộ, đảng viên cấu thành nên tổ chức đảng, mỗi đảng viên đều phải tham gia sinh hoạt chính trị trong tổ chức đảng. Do đó vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đội ngũ đảng viên. Đạo đức của Đảng thể hiện trực tiếp và sinh động thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Nhân dân cũng hoàn toàn có lý khi đánh giá đạo đức của Đảng thông qua đạo đức của những cá nhân đảng viên cụ thể, nhất là những đảng viên mà họ biết đến hay tiếp xúc nhiều nhất.
Tuy nhiên, Đảng là một tổ chức, một khối đoàn kết và thống nhất để lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân. Một tổ chức đảng chân chính cách mạng là môi trường thuận lợi cho những cái tốt, cái đẹp, cái đạo đức sinh sôi, nảy nở và lan tỏa trong mỗi người cũng như trong cộng đồng. Đó cũng là nơi tổ chức việc tuyên truyền, giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng, là nơi kiểm điểm, phê bình, góp ý đảng viên, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên về đạo đức. Công tác xây dựng Đảng về đạo đức vì thế có vai trò không thể thiếu của tổ chức đảng và cấp ủy các cấp. Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi chi bộ, mỗi cấp ủy đảng phải luôn tăng cường công tác tư tưởng của Đảng, nâng cao đạo đức cách mạng, bảo đảm chặt chẽ kỷ luật và tổ chức của Đảng. Tổ chức đảng và cấp ủy phải chịu trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục đạo đức của cán bộ, đảng viên. Người khẳng định: “Các cấp ủy phải quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục đảng viên. Từ nay trở đi công tác giáo dục đảng viên phải là một điều quan trọng trong chương trình công tác của cấp ủy”. Tổ chức đảng các cấp cũng phải chịu trách nhiệm về việc suy thoái, vi phạm đạo đức của cán bộ, đảng viên trong tổ chức của mình. Nếu trong tổ chức đảng có đảng viên vi phạm thì trách nhiệm trước hết thuộc về cấp ủy của tổ chức. Khi nói với tội tham ô, lãng phí của cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Các cấp ủy cùng với cán bộ cần tìm cho ra gốc rễ tham ô, lãng phí và xử trí đúng mức”.
Rõ ràng, xây dựng đạo đức của tổ chức đảng và đạo đức của đảng viên có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau, không thể bỏ qua mặt nào.
Thứ hai, Hồ Chí Minh không những đã chỉ ra những quy tắc, chuẩn mực đạo đức để cán bộ, đảng viên của Đảng phải tu dưỡng, rèn luyện mà Người còn chỉ ra những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của tổ chức đảng cần phải xây dựng với cách tiếp cận về tiêu chí của “một đảng chân chính cách mạng”, gồm 12 điều trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947)(1). 12 điều cần phải xây dựng ấy có thể tóm gọn lại thành những tiêu chí đạo đức cụ thể như sau:
- Xây dựng đạo đức trong tôn chỉ, mục đích hoạt động của Đảng: Đảng phải làm tròn sứ mệnh giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Đó là chuẩn mực đạo đức cao nhất.
- Xây dựng đạo đức trong nghiên cứu, vận dụng nền tảng lý luận của Đảng: Sự giác ngộ về cách mạng, về Chủ nghĩa Mác - Lênin, về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là sự khởi đầu cho sự hình thành tư cách người cán bộ cách mạng. Lý luận đúng đắn sẽ giúp mỗi cá nhân nhận ra sai lệch trong tư tưởng, nhận thức và hành động; khắc phục những biểu hiện như: phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi nền tảng tư tưởng của Đảng...
- Xây dựng đạo đức trong đường lối của Đảng: Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đó là điểm căn cốt, là vấn đề then chốt. Nắm vấn đề then chốt, giữ vững vấn đề then chốt, dựa trên cái then chốt để giải quyết linh hoạt, thiết thực, phù hợp với tình hình thực tế là yêu cầu đối với xây dựng đường lối của Đảng đó chính là đạo đức.
- Xây dựng đạo đức trong mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với Nhân dân: Đảng phải phát huy vai trò của Nhân dân, “phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị”. Đảng phải chăm lo lợi ích của nhân dân, “luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng”.
- Xây dựng đạo đức trong tổ chức và kỷ luật của Đảng: Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo”, đồng thời phải tẩy bỏ những phần tử hủ hoá ra ngoài Đảng, phải giữ kỷ luật nghiêm minh từ trên xuống dưới.
- Xây dựng bản lĩnh trước những sai lầm, khuyết điểm của Đảng: Sai lầm, khuyết điểm của Đảng, nhất là đảng cầm quyền là điều không thể tránh khỏi. Thái độ đúng đắn, khách quan, khoa học của Đảng trước những sai lầm, khuyết điểm đó là: công khai thừa nhận, “Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình” và kiên quyết sữa chữa.
Thứ ba, vì quan tâm đến nội dung xây dựng đạo đức của tổ chức đảng, cho nên trong quan niệm của Hồ Chí Minh chủ thể tiến hành xây dựng Đảng về đạo đức không chỉ là cán bộ, đảng viên mà còn từ phía tổ chức đảng và các cấp ủy. Đồng thời, Người đưa ra những chỉ dẫn quan trọng để tổ chức đảng và các cấp ủy phát huy vai trò của mình trong xây dựng Đảng về đạo đức. Nhìn lại toàn bộ di sản của Người, có thể thấy vai trò của cấp ủy và tổ chức đảng trong xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, trong công tác nghiên cứu và vận dụng lý luận, trong việc thường xuyên tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, trong phát huy dân chủ, tự phê bình và phê bình, trong công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên… Đây đều là những giải pháp quan trọng để tổ chức đảng xây dựng những chuẩn mực đạo đức.
Thực trạng hiện nay
Những năm gần đây, bên cạnh việc suy thoái đạo đức của cán bộ, đảng viên ngày một gia tăng và mức độ ngày càng nghiêm trọng, còn có không ít các tổ chức đảng vi phạm đạo đức. Những vi phạm của tổ chức đảng diễn ra khá đa dạng, phức tạp, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; dưới nhiều hình thức và được che giấu tinh vi, diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Theo báo cáo, trong năm 2017, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp sau khi kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên đã kết luận: 708 tổ chức đảng và 1.482 đảng viên có khuyết điểm vi phạm, phải thi hành kỷ luật 22 tổ chức đảng và 350 đảng viên, trong đó có nhiều đảng viên bị khai trừ khỏi Đảng. Ủy ban Kiểm tra Trung ương qua kiểm tra có dấu hiệu vi phạm 12 tổ chức đảng và 16 đảng viên, trong đó có 3 ủy viên Trung ương Đảng (nhiệm kỳ XI, XII); đã thi hành kỷ luật theo thẩm quyền đối với 18 đảng viên, đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỳ luật 3 tổ chức đảng bằng hình thức cảnh cáo và 10 đảng viên từ cảnh cáo đến cách chức; đề nghị tổ chức đảng cấp dưới thi hành ký luật 2 tổ chức đảng. Ủy ban kiểm tra các cấp kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 3.589 tổ chức đảng và 10.363 đảng viên, kết luận 2,398 tổ chức đảng và 8.453 đảng viên có vi phạm, phải thi hành kỷ luật 173 tổ chức và 3.761 đảng viên(2).
Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 11 (khóa XII), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội khóa XII đến giữa năm 2019, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật hơn 70 cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 1 ủy viên Bộ Chính trị và 4 ủy viên Trung ương Đảng khóa XII, 14 ủy viên Trung ương Đảng. Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đã kỷ luật 7 tổ chức đảng (Ban Cán sự đảng Bộ Công thương, Ban Cán sự đảng Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Cán sự đảng bộ Giao thông vận tải, Ban Thường vụ Đảng ủy Ngoài nước, Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng và Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc)(3).
Hơn thế nữa, vi phạm đạo đức của tổ chức đảng mang tính tập thể, có sự điều hành của người đứng đầu, có tổ chức chặt chẽ, có sự thỏa hiệp, do đó sẽ để lại những hậu quả nghiêm trọng. Những vụ án điển hình thời gian vừa qua phản ánh phần nào thực trạng trên như: Vụ án Vinalines do Dương Chí Dũng, nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam Vinalines thực hiện với tội danh tham ô tài sản, cố ý làm trái quy định của Nhà nước và quản lý kinh tế, gây thiệt hại tài sản nhà nước 240.000 USD; vụ án Đinh La Thăng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN giai đoạn 2009-2015, lạm dụng quyền lực, thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát, quản lý tổ chức đảng và đảng viên dẫn đến nhiều khoản đầu tư bị tổn thất, khó thu hồi với tổng số tiền lớn; vụ án đánh bạc công nghệ cao liên quan đến Phan Văn Vĩnh, Nguyễn Thanh Hóa. Một số vụ án nghiêm trọng, phức tạp khác như: vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí”, của Dự án 15 Thi Sách, Thành phố Hồ Chí Minh; vụ án “Vi phạm quy định về quản lý đất đai; vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” xảy ra tại thành phố Đà Nẵng; vụ án “Vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Tổng Công ty Viễn thông Mobifone, Bộ Thông tin và Truyền thông và các đơn vị có liên quan; vụ án “Giả mạo trong công tác; Sản xuất, buôn bán hàng giả” xảy ra tại Công ty Lũng Lô và một số công ty, tổ chức liên quan; vụ án “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Bộ Thông tin và Truyền thông...
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây có thể thấy, để xây dựng Đảng về đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay, chúng ta cần nhận thức một cách toàn diện về nội dung xây dựng, cụ thể là bên cạnh xây dựng những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên còn phải chú trọng đến xây dựng những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của tổ chức đảng./.
_____________________
(1) Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), Xem tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (10.1947), Nxb. CTQG, Hà Nội, tr. 269-346.
(2) Bùi Thế Đức (2018), “Giáo dục liêm, chính với cán bộ, đảng viên - việc cần thiết giữ đảng trường tồn”, Tạp chí Tuyên Giáo, (6), tr.7-9.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử ngày 07.5.2021
Bài liên quan
- Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
- Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
- Nhận diện và xử lý những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong sách tôn giáo
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả là một biến thể nguy hại của chủ nghĩa cá nhân, trái ngược với những yêu cầu về phẩm chất đích thực và đạo đức cách mạng. Vì vậy, ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả là loại bỏ những thói hư tật xấu đang ngấm ngầm làm tha hóa cán bộ, đảng viên. Chống uy tín giả cũng là chống chủ nghĩa cá nhân, củng cố uy tín đích thực của người cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả nảy sinh, xâm nhập, lây lan trong đời sống chính trị, xã hội do nhiều nguyên nhân, trong đó, yếu tố chủ quan của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên là nguyên nhân trực tiếp, phổ biến.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Một trong những nguy cơ ngấm ngầm tạo ra sự ghen ghét, đố kỵ, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, làm suy yếu tổ chức, suy yếu tập thể là uy tín giả. Nghiêm trọng hơn, nó còn thúc đẩy sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân rất nguy hại. Suy rộng ra, uy tín giả hủy hoại nghiêm trọng thanh danh của Đảng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta nếu không được nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn.
Bình luận