Công tác thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay: Vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị
1. Đặt vấn đề
Thông tin về TTCK, TPDN đóng vai trò thiết yếu trong việc cung cấp dữ liệu và định hướng cho các nhà đầu tư, nhà giao dịch chứng khoán và chuyên gia tài chính. Đây là nguồn tài liệu chính để đưa ra các quyết định đầu tư, theo dõi và đánh giá thị trường một cách toàn diện. Trên báo chí nói chung và BMĐT nói riêng, những thông tin này đóng vai trò quan trọng để nhà đầu tư, người quan tâm và các bên liên quan nhận được thông tin chính xác, kịp thời và đáng tin cậy. Để hiểu rõ được thông tin về TTCK, TPDN trên BMĐT, trước hết cần làm rõ một số khái niệm liên quan.
Thị trường chứng khoán: Theo Khoản 27, Điều 4, Chương 1, Luật Chứng khoán 2019 (sửa đổi bổ sung năm 2024) quy định: “Thị trường giao dịch chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán”(1). Như vậy, về hình thức, TTCK là nơi giao dịch (sàn giao dịch) ký kết, thực hiện hợp đồng mua bán các giấy tờ có giá (chứng khoán) giữa những người môi giới.
Về nội dung, TTCK là thị trường mua - bán quyền sử dụng và quyền sở hữu vốn (mua - bán quyền sử dụng và quyền sở hữu tư bản).
Về bản chất, thị trường chứng khoán (TTCK) ban đầu thuần túy là một thị trường vốn, nơi diễn ra hoạt động mua bán các công cụ nợ (văn tự nợ). Theo thời gian, TTCK đã phát triển thành một thị trường đầu tư, trong đó, giao dịch cổ phiếu trở thành hoạt động chủ yếu. Là khái niệm mang tính lịch sử, TTCK không ngừng thay đổi và mở rộng nội dung theo sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống tài chính. Do đó, trong thực tiễn, thuật ngữ “thị trường chứng khoán” không chỉ mang ý nghĩa truyền thống, mà còn có thể bao hàm nhiều nội dung mới, phản ánh sự tiến hóa của các công cụ tài chính và cơ chế giao dịch.
Trái phiếu doanh nghiệp: Là một loại chứng khoán nợ do các doanh nghiệp phát hành nhằm huy động vốn từ nhà đầu tư.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Chương I, Luật Chứng khoán 2019 (sửa đổi bổ sung năm 2024), trái phiếu là một sản phẩm chứng khoán xác nhận về quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu trái phiếu đối với phần nợ của đơn vị phát hành(2). Tổ chức phát hành có trách nhiệm thực hiện các cam kết về thanh toán các khoản lãi suất định kỳ, đồng thời khi đáo hạn phải hoàn lại số tiền ban đầu về cho nhà đầu tư. Tổ chức phát hành có thể là Chính phủ hoặc doanh nghiệp.
Căn cứ quy định tại Điều 5, Nghị định 153/2020/NĐ-CP, trái phiếu doanh nghiệp là loại chứng khoán có kỳ hạn từ 01 năm trở lên do doanh nghiệp phát hành, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần nợ của doanh nghiệp phát hành(3).
Từ đó, có thể hiểu: Thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử là tập hợp các dữ liệu, số liệu, bài viết, phân tích, đánh giá liên quan đến hoạt động của thị trường chứng khoán và tình hình phát hành, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp, được đăng tải trên báo mạng điện tử. Những thông tin này có vai trò quan trọng trong việc cung cấp dữ liệu, hỗ trợ hoạt động đầu tư và quản lý cho nhà đầu tư, doanh nghiệp và cơ quan quản lý.
Hiện nay, công chúng có thể dễ dàng tiếp cận thông tin về TTCK, TPDN thông qua nhiều kênh truyền thông và phương tiện khác nhau. Do đó, việc cung cấp nội dung thông tin này trên BMĐT cần đảm bảo yêu cầu nhanh chóng, chính xác và đầy đủ, nhằm thu hút và đáp ứng nhu cầu của công chúng.
Tuy nhiên, đặc thù nhạy cảm của thông tin tài chính, cùng áp lực cạnh tranh giữa các cơ quan báo chí với nhau, giữa các cơ quan báo chí với mạng xã hội khiến quá trình truyền tải thông tin về TTCK, TPDN đôi khi gặp hạn chế về độ chính xác, mức độ kiểm chứng và chưa đầy đủ. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp nhận thông tin của công chúng, nhất là trong những thời điểm thị trường có nhiều biến động.
Từ thực tế đó, việc xem xét công tác thông tin về TTCK, TPDN trên BMĐT là cần thiết nhằm nhận diện những vấn đề đặt ra trong quá trình thông tin. Đồng thời, gợi mở một số khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng thông tin về TTCK, TPDN trong giai đoạn hiện nay.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm đánh giá thực trạng thông tin về TTCK, TPDN trên BMĐT hiện nay, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp thông qua việc khảo sát tại 03 BMĐT là Thời báo Ngân hàng điện tử (thoibaonganhang.vn), Báo điện tử Đầu tư (baodautu.vn) và Thời báo Tài chính Việt Nam Online (thoibaotaichinhvietnam.vn) trong thời gian từ năm 2022 - 2024. Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp thống kê và phân tích nội dung nhằm nhằm xác định tần suất, số lượng, tỷ lệ tin/bài và phân tích nội dung, hình thức thông tin về TTCK, TPDN trên 03 BMĐT diện khảo sát.
Kết quả khảo sát, thống kê có tổng có 5578 tin, bài liên quan đến thông tin về thị trường chứng khóa và trái phiếu doanh nghiệp, với Keyword (từ khóa) trong tin, bài là: “chứng khoán”, “VNIndex”, “thị trường tài chính”, “trái phiếu doanh nghiệp”.
3. Kết quả và thảo luận về công tác thông tin thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp trên các báo mạng điện tử diện khảo sát
3.1. Về số lượng, tỷ lệ thông tin
Bằng cách sử dụng các từ khoá tìm kiếm chủ yếu gồm: “chứng khoán”, “VNIndex”, “thị trường tài chính”, “trái phiếu doanh nghiệp” trên 03 BMĐT được chọn khảo sát là Báo điện tử Đầu tư (baodautu.vn), và Thời báo Tài chính Việt Nam (thoibaotaichinhvietnam.vn) và Thời báo Ngân hàng (thoibaonganhang.vn), từ năm 2022 - 2024, có tổng cộng 5.578 tin, bài có nội dung liên quan đến TTCK và TPDN. Tần suất đưa tin trung bình đạt 2,53 bài/ngày, trong đó: Thời báo Tài chính Việt Nam (2,8 bài/ngày), Báo điện tử Đầu tư (2,55 bài/ngày) và Thời báo Ngân hàng (2,25 bài/ngày).
Số lượng và tỷ lệ trên từng báo mạng điện tử diện khảo sát như sau:
Bảng 1. Số lượng, tỷ lệ tin, bài đăng tải thông tin thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên 03 BMĐT diện khảo sát
Dữ liệu khảo sát sơ bộ cho thấy, số lượng tin bài có sự khác biệt giữa các tờ báo, do sự khác nhau về tôn chỉ, mục đích và đối tượng độc giả. Báo điện tử Đầu tư có số lượng bài viết cao nhất do tập trung nhiều vào lĩnh vực tài chính và đầu tư. Thời báo Tài chính Việt Nam cũng có số lượng đáng kể, nhưng phần lớn tập trung vào các khía cạnh chính sách tài chính. Trong khi đó, Thời báo Ngân hàng có số lượng bài ít hơn, phản ánh góc nhìn của ngành ngân hàng về TTCK, TPDN.
3.2. Về nội dung và hình thức thông tin
3.2.1. Về nội dung
Trên cơ sở tổng hợp, thông tin về TTCK và TPDN trên 03 BMĐT diện khảo sát chủ yếu tập trung vào 05 nhóm nội dung sau:
Bảng 2. Số lượng, tỷ lệ tin bài về TTCk, TPDN theo các nhóm nội dung trên 03 BMĐT diện khảo sát
Từ bảng 2 có thể thấy, trong giai đoạn năm 2022 - 2024, xu hướng thông tin về TTCK, TPDN trên 03 BMĐT diện khảo sát đã phản ánh tương đối rõ cấu trúc ưu tiên trong thông tin về kinh tế - tài chính. Các nhóm nội dung được phân bổ với tỷ trọng khác nhau, cho thấy mức độ quan tâm của báo chí đối với từng mảng thông tin cũng như yêu cầu cập nhật theo diễn biến của thị trường.
Nhóm 1: Cập nhật tin tức thị trường chứng khoán trong nước và quốc tế: Chiếm tỷ lệ lớn nhất (38,5%), cho thấy báo chí ưu tiên cập nhật diễn biến thị trường chứng khoán trong nước và quốc tế. Nội dung chủ yếu phản ánh biến động theo ngày của các chỉ số như VNIndex, VN30, HNX, cùng sự thay đổi của từng nhóm cổ phiếu, mức giao dịch và tác động từ thị trường thế giới. Đây là nhóm thông tin có phạm vi tiếp cận rộng, phục vụ nhu cầu theo dõi liên tục của nhà đầu tư. Trong giai đoạn 2022 - 2024, các BMĐT diện khảo sát đã duy trì tần suất cập nhật cao đối với mảng nội dung này, góp phần cung cấp kịp thời các biến động chính của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Ví dụ, năm 2024, thị trường chứng khoán Việt Nam có nhiều dấu hiệu hồi phục, trong bối cảnh thị trường chứng khoán toàn cầu cũng bắt đầu ổn định sau những biến động lớn vào năm 2022 và 2023. Báo điện tử Đầu tư, ngày 02/1/2024, trong bài viết “Chứng khoán năm 2024: Nương theo những điểm sáng phục hồi của nền kinh tế” đã nhận định: “Năm 2024, VN-Index đã bắt đầu có sự tăng trưởng nhất định sau khi giảm sâu trong các năm trước. Tuy nhiên, thị trường vẫn phải đối mặt với các yếu tố rủi ro từ bên ngoài, như chính sách lãi suất của các ngân hàng trung ương lớn”. Bài viết chỉ ra, thị trường vẫn phải đối mặt với một số thách thức, như tình hình lãi suất toàn cầu và chính sách tiền tệ trong nước. Những yếu tố này vẫn tác động đến tâm lý nhà đầu tư.
Nhóm 2: Tin tức và phân tích về thị trường trái phiếu doanh nghiệp: Chiếm 16%, phản ánh mức độ quan tâm tương đối của báo chí đối với thị trường TPDN trong bối cảnh lĩnh vực này trải qua nhiều biến động giai đoạn 2022 - 2023. Thông tin tập trung vào tình trạng một số doanh nghiệp chậm hoặc chưa thực hiện nghĩa vụ trái phiếu, cùng sự suy giảm của hoạt động phát hành trên thị trường. 03 BMĐT trong diện khảo sát đã duy trì tần suất cập nhật, cung cấp các phân tích nhằm giúp công chúng nắm bắt diễn biến chung và những vấn đề đặt ra trong quá trình điều chỉnh thị trường. Ví dụ, bài “Vực dậy thị trường trái phiếu doanh nghiệp: Những biện pháp cần thiết” đăng trên Thời báo Tài chính Việt Nam (ngày 12/6/2023) cho biết dư nợ TPDN cuối năm 2022 đạt khoảng 1,26 triệu tỷ đồng, tương đương 15% GDP, đồng thời ghi nhận quan điểm cho rằng thị trường cần thời gian củng cố và sự hỗ trợ từ khung chính sách.
Nhóm 3: Thông tin về các doanh nghiệp niêm yết hỗ trợ từ khung chính sách: Chiếm 19%, tập trung phản ánh hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết, đặc biệt là những doanh nghiệp xuất hiện trong các sự kiện được thị trường quan tâm. Nội dung chủ yếu xoay quanh biến động cổ phiếu, tình hình kinh doanh, thay đổi nhân sự, hoạt động quản trị và các vấn đề liên quan đến công bố thông tin.
Trong giai đoạn 2022 - 2024, báo chí cũng đề cập đến một số trường hợp doanh nghiệp liên quan đến việc tuân thủ quy định pháp lý. Trường hợp của Tập đoàn FLC năm 2022 là một ví dụ thường được nhắc đến. Thời báo Ngân hàng có bài viết: “Trịnh Văn Quyết và vụ thao túng cổ phiếu FLC: Cú sốc thị trường chứng khoán 2022”, ngày 13/3/2022, ghi nhận diễn biến pháp lý liên quan đến Chủ tịch Tập đoàn và phản ánh tác động của sự kiện này đối với giao dịch cổ phiếu FLC trong thời điểm đó.
Nhóm 4: Phân tích và tư vấn đầu tư từ chuyên gia: Chiếm 5,5%, thể hiện mảng nội dung phân tích và tư vấn đầu tư được triển khai ở mức độ giới hạn hơn so với các nhóm thông tin khác. Điều này phản ánh đặc thù của báo chí tài chính là ưu tiên cung cấp thông tin thị trường và chính sách, trong khi các nội dung mang tính khuyến nghị đầu tư thường được lựa chọn cẩn trọng để bảo đảm tính khách quan và tránh tạo hiểu nhầm đối với công chúng.
Trong phạm vi các bài viết được đăng tải, báo chí chủ yếu trích dẫn đánh giá của chuyên gia tài chính, công ty chứng khoán và các tổ chức phân tích quốc tế nhằm cung cấp góc nhìn tham khảo về xu hướng thị trường, cơ hội theo nhóm ngành và rủi ro cần lưu ý. Một số bài viết như “Dự báo thị trường chứng khoán 2023” (Báo điện tử Đầu tư, ngày 27/12/2022), “Cơ hội ngành tiềm năng” (Báo điện tử Đầu tư, ngày 5/12/2022) hay “FTSE Russell đánh giá tích cực về thị trường Việt Nam” (Thời báo Tài chính Việt Nam, ngày 15/2/2024) đưa ra nhận định về triển vọng thị trường, khả năng phục hồi của một số ngành và các yếu tố ảnh hưởng từ bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế. Các nội dung này góp phần hỗ trợ nhà đầu tư trong việc nhận diện xu hướng, đánh giá triển vọng và xem xét các cơ hội đầu tư dài hạn.
Nhóm 5: Pháp lý và chính sách liên quan đến thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp: Chiếm 21% tổng số tin, bài, thể hiện mức độ quan tâm nổi bật của 03 BMĐT đối với các thay đổi của khung khổ pháp lý về TTCK, TPDN, với nhiều nghị định, thông tư và chỉ đạo điều hành mới.
Năm 2024, Luật Chứng khoán sửa đổi là một trong những nội dung được đề cập nổi bật. Thời báo Tài chính Việt Nam, trong bài “Luật Chứng khoán 2024: Bước tiến quan trọng trong việc nâng cao tính minh bạch và bảo vệ nhà đầu tư” (ngày 05/3/2024), cho biết Luật mới bổ sung một số quy định nhằm tăng cường minh bạch, bảo vệ nhà đầu tư và nâng cao hiệu quả giám sát thị trường. Các ý kiến chuyên gia được trích dẫn trong bài viết đánh giá rằng những điều chỉnh này góp phần hoàn thiện nền tảng pháp lý, hỗ trợ sự phát triển ổn định và hướng tới nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam.
Khảo sát nội dung thông tin về TTCK, TPDN trên 03 BMĐT diện khảo sát cho thấy toàn cảnh của thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp giai đoạn 2022 - 2024: Khủng hoảng trên thị trường TPDN, TTCK lao dốc rồi bắt đầu phục hồi trong năm 2023 - 2024, song song với nỗ lực minh bạch hóa thị trường của cơ quan quản lý. Những dẫn chứng cụ thể từ các bài báo giai đoạn này cho thấy xu hướng chung: Thị trường tài chính Việt Nam đang trưởng thành hơn sau mỗi “cú sốc”, với sự vào cuộc quyết liệt của cơ quan quản lý và sự đồng hành thông tin của báo chí.
3.2.2. Về hình thức thông tin
Qua khảo sát có thể thấy, cả 03 BMĐT đều đã xây dựng các chuyên mục riêng về thông tin chứng khoán. Cụ thể:
- Thời báo Tài chính Việt Nam Online: Phần lớn các bài viết mang thông tin về TTCK, TPDN được phân bổ trên chuyên mục “Chứng khoán”, ngoài ra còn xuất hiện trên các chuyên mục khác như: Kinh doanh, Tài chính, Kinh tế…
- Thời báo Ngân hàng điện tử: Toà soạn thiết kế chuyên mục “Chứng khoán” với các tiểu mục như: Phân tích nhận định, Chuyện bên lề, Trên sàn hôm nay…
- Báo điện tử Đầu tư: Tổ chức các bài viết thông tin về TTCK, TPDN trên nhiều chuyên mục như: Tài chính - Chứng khoán, Đầu tư, Doanh nghiệp…
So với hai báo còn lại, báo điện tử Đầu tư còn có một chuyên trang riêng về thị trường chứng khoán là Tin nhanh Chứng khoán (www. tinnhanhchungkhoan.vn, từ ngày 1/3/2025 là chuyên trang của Báo Tài chính và Đầu tư). Đây là trang tin lớn nhất về thị trường, doanh nghiệp, tổ chức tài chính; là nơi trung gian giúp chia sẻ thông tin, vướng mắc, kiến nghị cùng TTCK Việt Nam.
Với đặc thù của thông tin về TTCK, TPDN là biến động nhanh và cập nhật liên tục, thể loại tin tức trở thành hình thức phổ biến và chiếm ưu thế trên các BMĐT. Đặc tính thời sự cao giúp thể loại này đáp ứng kịp thời nhu cầu tiếp cận thông tin của công chúng nói chung và nhà đầu tư nói riêng. Trong hệ thống nội dung báo chí tài chính, thể loại tin thường được ưu tiên bởi khả năng truyền tải nhanh các diễn biến thị trường, phù hợp với nhịp độ biến động theo ngày, theo giờ của TTCK.
Trên 03 BMĐT khảo sát, nội dung thông tin bao gồm: Tin về diễn biến thị trường chứng khoán hàng ngày, biến động giá cổ phiếu, thông tin doanh nghiệp, các đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp, tin về chi trả cổ tức…Các tin nhanh về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp chiếm ưu thế, với tỷ lệ trên 60% tổng số tin bài. Phần còn lại chủ yếu là các bài phân tích, bình luận và phỏng vấn.
Biểu đồ 1: Tỷ lệ tin bài về thông tin về TTCK, TPDN trên 03 BMĐT diện khảo sát - Nguồn: Khảo sát của tác giả
Bên cạnh đó, trong thời gian qua các BMĐT diện khảo sát cũng tích cực phát triển, xây dựng những bài viết đa phương tiện, kết hợp video, đồ họa..., mang lại trải nghiệm đọc báo mới mẻ, hấp dẫn cho độc giả. Các hình thức bài Emagazine, Infographic được sử dụng tích cực hơn trong việc chuyển tải các thông tin về TTCK, TPDN.
Qua khảo sát, tác giả nhận thấy Thời báo Ngân hàng điện tử và Thời báo Tài chính Việt Nam Online chưa có nhiều bài Emagazine, Inforgraphic về thông tin thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp, mặc dù đã tích cực phát triển thể loại báo chí này. Trong khi đó, báo điện tử Đầu tư đã xây dựng được nhiều bài viết đa phương tiện về TTCK, TPDN. Trên trang đã có một chuyên mục riêng về loại hình này với tên gọi “Special”. Đây cũng là điểm hai tờ báo còn lại có thể học hỏi, đầu tư, đặc biệt với tờ Thời báo Tài chính Việt Nam vốn có sẵn lợi thế nội dung chuyên sâu chất lượng về thông tin chứng khoán.
3.3. Đánh giá thực trạng
Kết quả đạt được: Kết quả khảo sát cho thấy, giai đoạn 2022 - 2024, 03 BMĐT thuộc diện khảo sát đã có những thành công nhất định trong việc thể hiện nội dung, hình thức thông tin về TTCK, TPDN.
Cụ thể, các báo đã duy trì cập nhật khá thường xuyên các chỉ số như VN-Index, HNX-Index và một số chỉ số quốc tế; phản ánh kịp thời biến động thị trường và hoạt động phát hành TPDN; cung cấp dữ liệu tương đối đầy đủ về doanh nghiệp niêm yết.
Chẳng hạn, trên Báo điện tử Đầu tư, nhiều tin bài được đăng theo nhịp thị trường như “Góc nhìn TTCK tuần đầu năm mới 2022: Chờ đợi break mốc 1.500”, (ngày 02/01/2022), “VN-Index chùn chân trước ngưỡng 1.050, khối ngoại kiên định mua ròng”, (ngày 10/01/2023); hay các tin phản ánh hoạt động doanh nghiệp và giao dịch cổ phiếu như “BCG chào bán 60 triệu cổ phiếu”, (ngày 18/02/2022), “VNDirect phát hành hơn 243 triệu cổ phiếu” (ngày 22/05/2024).
Thời báo Ngân hàng điện tử cũng thường xuyên cập nhật biến động theo phiên, chẳng hạn “VN-Index giảm 6,32 điểm” (ngày 30/05/2024), “Bật tăng mạnh 16 điểm, VN-Index đạt mốc 1.300 điểm” (ngày 12/06/2024); “HDBank thông báo phát hành trái phiếu ra công chúng”, ngày 17/1/2024. Thời báo Tài chính Việt Nam cũng có những tin thị trường theo ngày, như “Chứng khoán hôm nay (9/5): Giằng co cuối phiên, VN-Index thu hẹp đà tăng”, (ngày 9/5/2023), “Chứng khoán hôm nay (1/3): Giằng co, VN-Index hồi nhẹ cuối phiên” (ngày 01/03/2024).
Các báo không chỉ cung cấp thông tin thuần túy về các chỉ số chứng khoán mà còn cung cấp các tin, bài phân tích, đánh giá tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết, đánh giá rủi ro đối với các đợt phát hành TPDN. Ví dụ, trên Báo điện tử Đầu tư, có một số tin bài như “Kết quả kinh doanh quý I của nhiều doanh nghiệp lộ diện mảng xám” (ngày 19/04/2023), “ĐHĐCĐ Thai Holdings: Không chia cổ tức, tìm kiếm dự án để M&A” (ngày 23/04/2024). Thời báo Tài chính Việt Nam Online cũng đăng tải một số tin bài như “Hóa chất Đức Giang đặt mục tiêu lợi nhuận giảm mạnh so với năm 2022” (ngày 07/03/2023), “Hai doanh nghiệp bị xử phạt do vi phạm các quy định về công bố thông tin” (ngày 01/02/2024), phản ánh mức độ tuân thủ và các rủi ro về minh bạch thông tin trên thị trường. Thời báo Ngân hàng điện tử cũng có những bài phân tích chuyên sâu, như “Giải mã vì sao cổ phiếu NAB có hiệu suất đầu tư hiệu quả trong năm 2023” (ngày 19/12/2023), lý giải các yếu tố tác động đến tăng trưởng giá cổ phiếu và hiệu suất đầu tư của doanh nghiệp ngân hàng.
03 BMĐT diện khảo sát cũng thường xuyên đưa tin về những sự kiện lớn ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán, chẳng hạn như việc thay đổi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, các quyết định tăng lãi suất, hay các chỉ số GDP. Đây là một điểm mạnh giúp nhà đầu tư nắm bắt được xu hướng và điều chỉnh chiến lược đầu tư.
Ví dụ, báo điện tử Đầu tư, ngày 02/03/2024 có bài “Doanh nghiệp niêm yết sắp được công bố thông tin “một đầu mối”, thông tin về việc vận hành Hệ thống công bố thông tin một đầu mối từ ngày 08/03, được xem là bước tiến quan trọng nâng cao minh bạch trên thị trường chứng khoán. Cũng trên tờ báo này, bài “FTSE Russell và Morgan Stanley: Quyết tâm nâng hạng thị trường chứng khoán nhận phản hồi tích cực” (ngày 12/04/2024) phản ánh đánh giá tích cực từ các tổ chức quốc tế về nỗ lực cải cách nhằm đưa thị trường chứng khoán Việt Nam từ cận biên lên mới nổi.
Thời báo Tài chính Việt Nam online có bài “Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác kiểm toán doanh nghiệp niêm yết” (ngày 01/04/2022) nhấn mạnh yêu cầu siết chặt kiểm toán để đảm bảo minh bạch báo cáo tài chính; hay bài “Sẽ tổ chức các diễn đàn để hỗ trợ về hồ sơ cho doanh nghiệp chào bán chứng khoán” (ngày 05/03/2024) cho thấy cơ quan quản lý chủ động hỗ trợ doanh nghiệp về thủ tục, hồ sơ trong hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Thời báo Ngân hàng điện tử cũng có bài “Phát triển bền vững hơn thị trường trái phiếu doanh nghiệp” (ngày 01/12/2023) phân tích tác động của việc nhiều quy định trong Nghị định 65/2022/NĐ - CP sẽ có hiệu lực trở lại từ đầu năm 2024.
Hạn chế: Mặc dù đã có những thành công nhất định trong việc thông tin về TTCK, TPDN trên BMĐT, nhưng qua khảo sát, tác giả nhận thấy vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Mặc dù các báo đã cung cấp đầy đủ thông tin về biến động trên TTCK, TPDN, nhưng nhiều bài viết thiếu sự phân tích sâu về nguyên nhân vĩ mô của những biến động này. Ví dụ, bài “Bán tháo cổ phiếu đầu cơ, VN-Index vẫn tăng 18,2 điểm nhờ dòng tài chính và bluechips” (ngày 12/01/2022) trên Báo điện tử Đầu tư; mô tả khá chi tiết hiện tượng “hòn tuyết lăn” từ giao dịch FLC, tác động tâm lý từ vụ Tân Hoàng Minh và sự dịch chuyển dòng tiền sang nhóm vốn hoá lớn. Tuy nhiên, bài viết chưa phân tích các yếu tố vĩ mô, tâm lý thị trường, mức độ minh bạch hay biến động dòng vốn, nên chủ yếu mang tính tường thuật, chưa giúp nhà đầu tư hiểu sâu động lực vận hành của thị trường.
Một ví dụ khác là bài “Chứng khoán Việt Nam tăng trưởng ấn tượng trong tháng 2/2024” (ngày 05/03/2024) trên Thời báo Tài chính Việt Nam Online. Bài viết phản ánh khá đầy đủ diễn biến thị trường trong tháng nhưng nội dung vẫn thiên về thống kê và mô tả, chưa lý giải các yếu tố vĩ mô, chính sách hay tâm lý đứng sau đà tăng, nên chưa giúp nhà đầu tư hiểu rõ động lực thực sự của thị trường.
Trên Thời báo Ngân hàng điện tử, ngày 18/12/2023 đăng tải bài “Thanh khoản bán chủ động tiếp tục gia tăng khiến VN-Index giảm gần 11 điểm”; mô tả diễn biến theo phiên với lực bán mạnh ở nhóm vốn hoá lớn, khối ngoại bán ròng và các nhận định kỹ thuật về vùng hỗ trợ. Tuy nhiên, nội dung chưa phân tích sâu các yếu tố vĩ mô, như kỳ vọng lạm phát, chính sách tiền tệ quốc tế, diễn biến lãi suất hay nguyên nhân khối ngoại bán ròng mạnh, vốn có vai trò định hình xu hướng thị trường.
Bên cạnh đó, các báo đã cập nhật thông tin về các đợt phát hành TPDN, nhưng nhiều bài viết thiếu sự phân tích chi tiết về rủi ro đối với nhà đầu tư. Việc thiếu thông tin đánh giá rủi ro về mức độ tín nhiệm của các doanh nghiệp phát hành trái phiếu, khả năng thanh toán nợ, và tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô (như lãi suất, tỷ giá) đã làm giảm tính minh bạch của thị trường TPDN.
Ví dụ, trên Báo điện tử Đầu tư, ngày 16/04/2024 có bài “Thị trường trái phiếu sẽ sôi động hơn”. Tuy nhiên, nội dung mới dừng ở mô tả diễn biến phát hành và giao dịch TPDN quý I/2024 và kỳ vọng phục hồi, chưa phân tích rõ các rủi ro trọng yếu như khả năng trả nợ khi hàng trăm nghìn tỷ đồng trái phiếu sắp đáo hạn, mức độ lành mạnh dòng tiền của doanh nghiệp phát hành, sự chênh lệch lớn về tỷ suất lợi tức phản ánh rủi ro tín dụng, hay tác động của tồn kho đến dòng tiền bất động sản, chất lượng trái phiếu. Nên chưa giúp nhà đầu tư nhận diện đầy đủ mức độ rủi ro của kênh TPDN trong bối cảnh tái cơ cấu nợ còn phức tạp và một bộ phận trái phiếu tiếp tục đối mặt nguy cơ chậm trả.
Về hình thức, 03 BMĐT diện khảo sát đang thiếu tính tương tác, chưa ứng dụng hình thức báo chí sáng tạo (Creative Journalism), video ngắn, postcard. Theo thống kê ở Biểu đồ 1, ở 03 BMĐT, hình thức tin chiếm trên 60%, còn lại là bài phỏng vấn, phân tích. Trong tổng số 5578 tin bài được khảo sát, chỉ có Báo điện tử Đầu tư có hình thức Talkshow, bài có nội dung kèm theo chiếu video. Nhưng chiếm tỷ lệ ít, chỉ 64/2056 bài, chiếm tỷ lệ 3,11%. Bài Magazine, longform trên 03 BMĐT thường gắn TTCK, TPDN với kinh tế vĩ mô, không có bài chuyển tải thông tin thị trường, doanh nghiệp thông qua hai hình thức này.
Nguyên nhân của những hạn chế trên xuất phát chủ yếu từ yếu tố tổ chức tòa soạn và nguồn nhân lực. Nhiều BMĐT vẫn thiếu đội ngũ phóng viên, biên tập viên chuyên sâu về kinh tế - tài chính, dẫn tới việc ưu tiên đưa tin nhanh thay vì đầu tư cho các bài phân tích chuyên sâu đòi hỏi kiến thức vĩ mô, kỹ năng đọc báo cáo tài chính và khả năng dự báo. Bên cạnh đó, áp lực chạy theo lượt xem khiến tòa soạn tập trung vào tin ngắn, cập nhật thị trường theo thời gian thực, trong khi việc phân tích mối quan hệ giữa thị trường quốc tế, trong nước hay đánh giá rủi ro trái phiếu lại đòi hỏi thời gian, dữ liệu và sự phối hợp với chuyên gia mà không phải tòa soạn nào cũng đáp ứng được. Hạn chế về hệ thống dữ liệu, công cụ phân tích và cơ chế phối hợp nội bộ cũng góp phần làm giảm chiều sâu thông tin trên các BMĐT.
3.4. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử trong thời gian tới
Thứ nhất, tăng cường sự quản lý của Ban biên tập về thông tin chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp.
Việc nâng cao vai trò quản lý của Ban biên tập, đặc biệt là Tổng Biên tập, là yếu tố then chốt để đảm đảm bảo chất lượng và tính minh bạch của thông tin về chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo điện tử. Ban biên tập không chỉ đóng vai trò định hướng chiến lược nội dung mà còn phải kiểm soát chặt chẽ quy trình sản xuất tin bài, bảo đảm tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc báo chí như tính khách quan, chính xác và đáng tin cậy. Hơn nữa, sự phối hợp khoa học giữa Ban biên tập và các chuyên gia tài chính giúp nâng cao chiều sâu phân tích, cung cấp những góc nhìn đa chiều về xu hướng và tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô. Từ đó, tạo ra những sản phẩm báo chí có giá trị thực tiễn cao, hỗ trợ hiệu quả cho nhà đầu tư và góp phần ổn định thị trường tài chính.
Thứ hai, đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung và hình thức thông tin trên báo mạng điện tử.
Về nội dung: Để nâng cao chất lượng nội dung, BMĐT cần chuyển đổi từ việc chú trọng đưa tin đơn thuần, sang cung cấp thông tin mang tính phân tích chuyên sâu, có giá trị thực tiễn cao đối với nhà đầu tư và công chúng. Bao gồm việc mở rộng phạm vi nội dung, từ các tin tức thị trường ngắn gọn, sang các bài phân tích xu hướng, nhận định chiến lược đầu tư dài hạn, đánh giá tài chính doanh nghiệp và bình luận về các chính sách kinh tế vĩ mô trong nước và thế giới có ảnh hưởng đến TTCK và TPDN.
Các tòa soạn BMĐT cần đầu tư hơn vào các bài viết chuyên sâu, có sự tham gia của các chuyên gia tài chính, các nhà đầu tư chuyên nghiệp để mang đến góc nhìn đa chiều, giúp nhà đầu tư có cơ sở đánh giá thị trường một cách chính xác hơn. Những nội dung như phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp, dự báo xu hướng thị trường, đánh giá rủi ro của các sản phẩm tài chính, cần được thực hiện một cách khoa học và dựa trên dữ liệu thực tế. Ngoài gia tăng giá trị thông tin, điều này còn giúp nâng cao vị thế của báo chí tài chính trong việc định hướng cho thị trường. Các bài viết cũng cần có sự so sánh với thị trường quốc tế, phân tích tác động của chính sách kinh tế vĩ mô và cập nhật các xu hướng đầu tư mới nhất để nhà đầu tư có thể ra quyết định dựa trên thông tin toàn diện.
Về hình thức: Hình thức truyền tải thông tin đóng vai trò quan trọng không kém nội dung, đòi hỏi các BMĐT phải ứng dụng công nghệ hiện đại để tạo nên sản phẩm báo chí sinh động, trực quan và dễ tiếp cận hơn. Việc sử dụng infographic với các biểu đồ, bảng so sánh hay đồ thị tương tác giúp dữ liệu tài chính như P/E, EPS, ROE, ROA, vốn hóa hay biến động giá trở nên dễ hiểu, dễ ghi nhớ, qua đó nâng cao mức độ ảnh hưởng của bài báo. Song song, báo chí đa phương tiện, kết hợp bài viết với video phân tích, podcast, livestream chuyên gia hay các công cụ tương tác như bảng giá thời gian thực, tính toán lợi nhuận, chatbot tài chính giúp mở rộng đối tượng tiếp cận và tăng trải nghiệm người dùng. Bên cạnh đó, việc khai thác AI và Big Data hỗ trợ thu thập, phân tích, dự báo thị trường sẽ nâng cao độ chính xác và cá nhân hóa thông tin cho từng nhóm nhà đầu tư. Cuối cùng, xây dựng các diễn đàn hỏi đáp và trao đổi chuyên sâu giữa độc giả, nhà báo và chuyên gia cũng là giải pháp quan trọng để tăng tương tác, hình thành cộng đồng đầu tư và thúc đẩy chia sẻ kinh nghiệm.
Thứ ba, phát triển chuyên trang chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử
Trong bối cảnh thị trường tài chính ngày càng phát triển, việc xây dựng chuyên trang chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử trở nên thiết yếu. Hiện nay, nhiều báo điện tử chỉ duy trì chuyên mục tài chính - chứng khoán với nội dung cập nhật tin tức chung chung, chưa thực sự chuyên sâu. Phát triển chuyên trang riêng biệt về TTCK, TPDN giúp hệ thống hóa thông tin, tối ưu nguồn lực và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư theo dõi thị trường một cách toàn diện.
Các chuyên trang cần cung cấp thông tin đa dạng, từ diễn biến thị trường trong và ngoài nước, đến phân tích, đánh giá và dự báo xu hướng dài hạn. Đồng thời, các bài viết chuyên sâu về cổ phiếu, trái phiếu, quỹ đầu tư và chính sách tài chính sẽ giúp nhà đầu tư nắm bắt rõ hơn các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Bên cạnh đó, chuyên trang cần tích hợp các công cụ phân tích hiện đại như biểu đồ tương tác, báo cáo tài chính, đánh giá rủi ro sản phẩm tài chính, giúp tiếp cận thông tin chính xác và nhanh chóng.
Ngoài việc nâng cao giá trị nội dung, chuyên trang còn góp phần xây dựng thương hiệu báo điện tử và thu hút độc giả trung thành. Đây cũng là không gian lý tưởng để các chuyên gia tài chính trao đổi, tư vấn cùng nhà đầu tư, từ đó nâng cao chất lượng thông tin, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư và góp phần ổn định thị trường tài chính.
Thứ tư, bồi dưỡng năng lực, kiến thức chuyên môn và kỹ năng ứng dụng công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI) cho phóng viên phụ trách lĩnh vực tài chính
Để nâng cao chất lượng thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp, cần tập trung bồi dưỡng chuyên sâu và toàn diện cho đội ngũ phóng viên tài chính. Giải pháp gồm đào tạo kiến thức chuyên môn về cấu trúc thị trường, vận hành trái phiếu doanh nghiệp, phân tích báo cáo tài chính và các yếu tố kinh tế vĩ mô.
Song song đó, phóng viên cần được trang bị kỹ năng phân tích dữ liệu tài chính và sử dụng các công cụ phân tích hiện đại nhằm tạo ra các bài viết có chiều sâu, giá trị thực tiễn và độ chính xác cao.
Đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, việc bổ sung kỹ năng ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trở thành yếu tố then chốt. Phóng viên cần làm chủ công nghệ AI để khai thác dữ liệu tài chính, phát hiện nhanh các xu hướng và biến động thị trường, từ đó, xây dựng bài phân tích chuyên sâu, chính xác và kịp thời hơn. Kỹ năng sử dụng AI còn giúp tối ưu hóa nội dung, cá nhân hóa trải nghiệm độc giả và xây dựng các câu chuyện tài chính sinh động, dễ tiếp cận.
Việc nâng cao năng lực chuyên môn kết hợp với kỹ năng công nghệ hiện đại sẽ giúp báo chí tài chính cung cấp thông tin minh bạch, có trách nhiệm, từ đó bảo vệ nhà đầu tư và góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường tài chính trong kỷ nguyên số.
Thứ năm, củng cố, mở rộng mạng lưới cộng tác viên và hợp tác với cơ quan quản lý
Việc củng cố và mở rộng mạng lưới cộng tác viên, bao gồm các chuyên gia tài chính và tổ chức nghiên cứu, là khâu quan trọng để tăng chiều sâu và độ tin cậy của thông tin báo chí. Đồng thời, báo chí cần hợp tác chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước như Ủy ban Chứng khoán, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo nguồn tin chính thống và minh bạch. Sự kết hợp này vừa giúp nâng cao chất lượng thông tin, vừa góp phần xây dựng môi trường truyền thông tài chính ổn định, minh bạch, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư và thúc đẩy phát triển bền vững của TTCK, TPDN Việt Nam.
4. Kết luận
Với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây, TTCK, TPDN đã có những bước phát triển mạnh mẽ, thu hút sự quan tâm ngày càng lớn từ công chúng. Do đó, việc thông tin về TTCK, TPDN trên báo chí, đặc biệt là BMĐT cần được chú trọng. Đây là lĩnh vực gắn liền với thông tin và niềm tin, vì vậy, việc cung cấp và truyền tải thông tin chính xác, kịp thời trên BMĐT sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường, cũng như nền kinh tế đất nước. Nâng cao chất lượng thông tin về TTCK, TPDN không chỉ giúp báo chí thực hiện tốt chức năng của mình với vai trò là kênh thông tin quan trọng, mà còn trở thành công cụ hữu hiệu hỗ trợ Đảng, Nhà nước trong công tác lãnh đạo, quản lý và điều hành nền kinh tế. Đồng thời, báo chí cũng cần phát huy vai trò là diễn đàn của nhân dân, tạo không gian trao đổi thông tin, phản biện xã hội một cách minh bạch và hiệu quả./.
________________________________________________
(1) (2) Luật Chứng khoán 2019 (bổ sung năm 2019), truy cập tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Chung-khoan/Luat-Chung-khoan-nam-2019-399763.aspx.
(3) Nghị định 153/2020/NĐ-CP quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế, truy cập tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Chung-khoan/Nghi-dinh-153-2020-ND-CP-chao-ban-giao-dich-trai-phieu-doanh-nghiep-tai-thi-truong-trong-nuoc-461187.aspx.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Quản trị truyền thông thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần vốn nhà nước chi phối ở Việt Nam
- Văn hóa tham gia truyền thông số hậu Covid-19 ở Việt Nam (từ tham chiếu khung lý thuyết của Jenkins)
- Hoạt động marketing bền vững của các thương hiệu Unilever và Coca Cola tại Việt Nam hiện nay
- Những biểu hiện của chuyển đổi số báo chí và yêu cầu nâng cao năng lực số của nhà báo truyền hình ở Việt Nam hiện nay
- Ảnh hưởng của các công cụ truyền thông tiếp thị tích hợp tới tài sản thương hiệu bệnh viện tư tại Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
Phim Tài liệu: Video Khoa xây dựng Đảng 50 năm Xây dựng và Phát triển
-
2
Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
-
3
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
-
4
Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực báo chí - truyền thông trong kỷ nguyên chuyển đổi số
-
5
Sự thay đổi thói quen, nhu cầu tiếp nhận công tin của công chúng phát thanh đô thị và khuyến nghị với các kênh phát thanh
-
6
Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, các bệnh viện công (BVC) tại Việt Nam phải đối mặt với những thách thức đặc thù trong quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu (TTTH). Hoạt động này không chỉ nhằm mục đích quảng bá mà còn là công cụ chiến lược để xây dựng niềm tin xã hội và thực thi sứ mệnh y tế cộng đồng. Sử dụng Bệnh viện Nhi Trung ương (BVNTW) làm trường hợp nghiên cứu điển hình, bài viết phân tích thực trạng quản trị hoạt động TTTH trên các phương tiện truyền thông số thông qua khảo sát thực tiễn và phỏng vấn chuyên sâu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, BVNTW đạt được sự cam kết chiến lược mạnh mẽ từ ban lãnh đạo và độ tin cậy cao từ công chúng. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra những mâu thuẫn mang tính hệ thống. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một hệ thống giải pháp chiến lược, bao gồm việc xây dựng khung đo lường hiệu suất đa tầng, tối ưu hóa quy trình theo mức độ rủi ro và quản trị trải nghiệm thương hiệu đồng bộ, nhằm nâng cao hiệu quả quản trị TTTH tại các bệnh viện công.
Công tác thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay: Vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị
Công tác thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay: Vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị
Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó nhấn mạnh yêu cầu “đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền” cũng như “nghiêm cấm các hành vi đưa thông tin sai lệch, không chính xác, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân”. Đây là vừa là định hướng chiến lược, vừa là yêu cầu đối với báo chí trong giai đoạn mới, trong đó, có hoạt động thông tin thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp (TTCK, TPDN). Hoạt động thông tin báo chí về TTCK, TPDN có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, nghiên cứu thông tin về TTCK và TPDN trên báo chí nói chung, báo mạng điện tử (BMĐT) nói riêng là cần thiết nhằm góp phần nâng cao chất lượng truyền thông, định hướng dư luận xã hội, bảo vệ doanh nghiệp, nhà đầu tư và thúc đẩy thị trường phát triển theo hướng lành mạnh, bền vững.
Quản trị truyền thông thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần vốn nhà nước chi phối ở Việt Nam
Quản trị truyền thông thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần vốn nhà nước chi phối ở Việt Nam
Trong hệ thống tài chính - ngân hàng Việt Nam, các ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) có vốn nhà nước chi phối vừa là chủ thể kinh doanh, vừa thực thi mục tiêu ổn định vĩ mô, nên thương hiệu mang bản chất thể chế - thương mại, gắn với niềm tin về sự an toàn, minh bạch. Trong bối cảnh chuyển đổi số và cạnh tranh gia tăng, quản trị truyền thông (QTTT) thương hiệu của các ngân hàng này đối mặt “nghịch lý thể chế - tốc độ”: cơ chế quản trị nhiều tầng kiểm soát bảo đảm an toàn nhưng làm chậm phản ứng trước dòng chảy thông tin nhanh. Dựa trên khung lý thuyết về thương hiệu thể chế cùng dữ liệu khảo sát khách hàng và phỏng vấn cán bộ truyền thông do tác giả thực hiện, bài báo nhận diện ba biểu hiện của nghịch lý này và đề xuất tiếp cận QTTT thương hiệu như năng lực điều hành niềm tin thể chế, với ba trụ cột: quyền lực truyền thông; xây dựng hệ thông dữ liệu và cảnh báo sớm; thiết lập chế độ đối thoại với các nhóm công chúng.
Văn hóa tham gia truyền thông số hậu Covid-19 ở Việt Nam (từ tham chiếu khung lý thuyết của Jenkins)
Văn hóa tham gia truyền thông số hậu Covid-19 ở Việt Nam (từ tham chiếu khung lý thuyết của Jenkins)
Hai thập niên đầu thế kỷ XXI chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ từ mô hình truyền thông phát tán một chiều sang hệ sinh thái số tương tác, nơi công chúng không chỉ tiếp nhận mà còn đồng sáng tạo nội dung. Đại dịch Covid-19 (2020-2022) đã thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, gia tăng mức độ tham gia của công dân trên các nền tảng trực tuyến. Dựa trên khung lý thuyết “văn hóa tham gia” của Henry Jenkins, bài viết hệ thống hóa khái niệm và các mức độ tham gia, mô tả bối cảnh truyền thông số hậu đại dịch trên bình diện toàn cầu và tại Việt Nam, đồng thời phân tích các biểu hiện, xu hướng, cũng như thách thức trong thực tiễn Việt Nam.
Hoạt động marketing bền vững của các thương hiệu Unilever và Coca Cola tại Việt Nam hiện nay
Hoạt động marketing bền vững của các thương hiệu Unilever và Coca Cola tại Việt Nam hiện nay
Bài viết tập trung phân tích thực trạng hoạt động marketing bền vững của hai thương hiệu đa quốc gia tiêu biểu là Unilever và Coca-Cola tại thị trường Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu cho thấy cả Unilever và Coca-Cola đều đã chủ động tích hợp yếu tố bền vững vào chiến lược marketing, song cách tiếp cận có sự khác biệt rõ rệt. Unilever nổi bật ở tính hệ thống, minh bạch và sự nhất quán trong truyền thông bền vững, trong khi Coca-Cola được đánh giá cao ở các hoạt động trách nhiệm xã hội và đổi mới bao bì gắn với môi trường. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả marketing bền vững cho các doanh nghiệp FMCG tại Việt Nam, góp phần hướng tới mô hình tăng trưởng dài hạn và có trách nhiệm.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận