Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
1. Vị trí, vai trò chiến lược của công tác tư tưởng, lý luận
Công tác tư tưởng, lý luận luôn có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác tư tưởng, lý luận giúp hình thành thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đồng thời, đây cũng là mặt trận tinh thần để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Xuất phát từ tư tưởng của C.Mác: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó xâm nhập vào quần chúng”(1), Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Công việc thành hay là bại một phần lớn là do nơi tư tưởng”(2), “công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất… Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”(3), “phải kiên quyết chống cái thói xem nhẹ tư tưởng”(4)… Đảng ta đã hình thành hệ thống quan điểm chỉ đạo công tác tư tưởng. Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định công tác tư tưởng là một trong những trụ cột chiến lược của sự nghiệp cách mạng. Công tác tư tưởng trong các thời kỳ sau này tiếp tục gắn chặt và phục vụ thiết thực cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, phát huy cao độ lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta làm nên thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế cao cả cũng như trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về công tác tư tưởng, lý luận, đến Đại hội IX của Đảng đã ban hành Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 18/3/2002, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”. Đến Đại hội X, Đảng tiếp tục ban hành Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 1/8/2007, Hội nghị Trung ương 5 khóa X, “Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”. Nghị quyết khẳng định: “Công tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng”(5). Văn kiện Đại hội XIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh: “Hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam”(6). Đây là phương tiện cốt lõi để thống nhất nhận thức trong Đảng, củng cố niềm tin trong nhân dân, đồng thời tạo nên sức mạnh tinh thần và sự đồng thuận xã hội trong mọi thời kỳ lịch sử. Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc, cũng như trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, công tác tư tưởng đã “đi từng ngõ, gõ từng nhà, đến từng người”, luôn giữ vai trò đi trước, dẫn đường - định hướng dư luận, động viên toàn dân hành động vì mục tiêu cách mạng.
Trong bối cảnh chuyển đổi số, vị trí của công tác tư tưởng không những không giảm mà còn trở nên đặc biệt quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết. Sự phát triển của công nghệ số, truyền thông đa phương tiện và mạng xã hội đã thay đổi mạnh mẽ cách thức truyền đạt, tiếp nhận và lan tỏa thông tin. Trong môi trường đó, các thế lực phản động, thù địch không ngừng gia tăng các hoạt động chống phá với thủ đoạn tinh vi, tần suất cao và mức độ lan truyền nhanh chóng. Do vậy, công tác tư tưởng, lý luận hiện nay không chỉ là định hướng nhận thức mà còn là “lá chắn” tư tưởng vững chắc của Đảng và Nhà nước trước những luồng thông tin trái chiều, độc hại. Nó đòi hỏi sự đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung, hình thức, phương thức triển khai và năng lực của đội ngũ làm công tác tư tưởng để có thể chủ động chiếm lĩnh không gian truyền thông số, giữ vững trận địa tư tưởng trong thời đại công nghệ số.
2. Yêu cầu cấp thiết của đổi mới công tác tư tưởng trong thời đại số
2.1. Cơ sở xác định yêu cầu cấp thiết của đổi mới công tác tư tưởng trong thời đại số
Thứ nhất, cơ sở chính trị của yêu cầu đổi mới công tác tư tưởng trong thời đại số.
Công tác tư tưởng là một trong ba trụ cột của công tác xây dựng Đảng, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng nhận thức, củng cố niềm tin, tạo sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Trong bối cảnh mới, yêu cầu cấp thiết phải đổi mới công tác tư tưởng có nền tảng vững chắc từ các văn kiện của Đảng, đặc biệt là từ các Đại hội Đảng toàn quốc.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới về nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(7). Văn kiện này cũng xác định mục tiêu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam phải trở thành quốc gia phát triển, hiện đại, dân chủ, thịnh vượng – trong đó yếu tố tinh thần, ý chí, niềm tin chính trị là những động lực then chốt.
Hơn nữa, sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đặt nền móng cho việc đổi mới đồng bộ nhiều lĩnh vực, trong đó có công tác tư tưởng. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của “tư tưởng đi trước mở đường”, Đảng ta đã khẳng định rõ trong nhiều văn kiện: nếu không đổi mới công tác tư tưởng, sẽ không thể nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong thời đại mới.
Thứ hai, cơ sở pháp lý cho đổi mới công tác tư tưởng trong thời đại số.
Cơ sở pháp lý của việc đổi mới công tác tư tưởng được thể hiện trong hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các luật có liên quan như:
Hiến pháp 2013: Khoản 1 Điều 4 khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Điều này tạo cơ sở pháp lý cho việc Đảng trực tiếp lãnh đạo công tác tư tưởng trong toàn hệ thống chính trị(8).
Luật An ninh mạng (2018): Là cơ sở pháp lý quan trọng để kiểm soát thông tin trên không gian mạng, bảo đảm an ninh tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước các hành vi lợi dụng mạng để chống phá nhà nước, tuyên truyền thông tin sai lệch, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc(9).
Luật Báo chí (2016) và các quy định về quản lý thông tin, truyền thông: Tạo hành lang pháp lý cho các cơ quan báo chí, truyền thông thực hiện tốt vai trò định hướng tư tưởng, phản bác luận điệu sai trái, xây dựng lối sống tích cực trong cộng đồng mạng và xã hội, “báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của nhân dân” (10).
Chiến lược chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030: Văn bản này khẳng định vai trò của công nghệ số trong quản trị xã hội, trong đó có công tác tư tưởng. Nó yêu cầu các cơ quan của Đảng và Nhà nước phải nhanh chóng chuyển đổi phương thức tiếp cận, tuyên truyền, tương tác với nhân dân thông qua nền tảng số.
Các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề của Đảng, như Nghị quyết số 35-NQ/TW (2018) về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới – đã chỉ rõ cần đổi mới mạnh mẽ tư duy, công cụ, nhân lực phục vụ cho công tác tư tưởng, phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư(11).
Thứ ba, cơ sở thực tiễn của yêu cầu đổi mới công tác tư tưởng.
Sự biến đổi không gian tư tưởng và truyền thông. Không gian tư tưởng truyền thống – vốn được kiểm soát qua báo chí, xuất bản – đã chuyển dịch mạnh mẽ sang môi trường số, đặc biệt là mạng xã hội. Với hơn 78 triệu người dùng Internet (chiếm gần 80% dân số), Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ sử dụng mạng xã hội cao nhất thế giới. Điều này tạo ra áp lực và thách thức mới cho công tác tư tưởng: thông tin lan truyền nhanh, đa chiều, khó kiểm soát; các thế lực thù địch, phản động lợi dụng triệt để môi trường số để lan truyền quan điểm sai trái, gây hoang mang, mất niềm tin trong một bộ phận quần chúng nhân dân.
Sự thay đổi trong tâm lý xã hội, đặc biệt là giới trẻ. Trong thời đại số, xu hướng cá nhân hóa, đề cao tự do thông tin khiến tâm lý xã hội thay đổi nhanh chóng. Giới trẻ – thế hệ sinh ra trong môi trường kỹ thuật số – có xu hướng tiếp cận thông tin không theo hệ thống, dễ bị cuốn vào các luồng tư tưởng cực đoan, phản văn hóa. Điều này đòi hỏi công tác tư tưởng phải thay đổi cách thức truyền tải: thay vì áp đặt, cần đối thoại; thay vì một chiều, cần đa chiều có định hướng; thay vì lý luận khô khan, cần gần gũi, sinh động, có tính lan tỏa.
Sự gia tăng các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”(12); “Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”(13). Điều này phản ánh sự thiếu hiệu quả trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Muốn củng cố “sức đề kháng” trước các tác động tiêu cực, công tác tư tưởng cần được đầu tư nghiêm túc cả về nhân lực, phương pháp và công nghệ.
Yêu cầu gắn kết giữa lý luận và thực tiễn. Một trong những hạn chế lớn hiện nay là công tác tư tưởng đôi khi xa rời thực tiễn, nặng tính lý luận, thiếu gắn kết với đời sống nhân dân. Trong khi đó, người dân ngày càng đòi hỏi thông tin phải minh bạch, chính xác, dễ hiểu và gần gũi. Những câu hỏi về vai trò của Nhà nước, định hướng phát triển, mô hình tăng trưởng, giá trị văn hóa dân tộc trong môi trường số... đòi hỏi công tác tư tưởng phải trở thành kênh kết nối giữa lý luận với thực tiễn một cách linh hoạt và hiệu quả hơn.
2.2. Nội dung yêu cầu của đổi mới công tác tư tưởng trong thời đại số
Thứ nhất, Trong kỷ nguyên chuyển đổi số, công tác tư tưởng và lý luận đứng trước những yêu cầu cấp bách mang tính chiến lược. Cần nhận thức rõ sự chuyển dịch không gian tư tưởng sang môi trường số. Không gian mạng đã trở thành môi trường truyền thông chủ yếu, nơi thông tin lan truyền rất nhanh chóng, không kiểm soát. Đây vừa là cơ hội để lan tỏa giá trị tích cực, vừa là thách thức lớn bởi sự bùng phát của các thông tin xuyên tạc, sai lệch, độc hại. Nếu không kịp thời đổi mới phương thức tư tưởng, chiếm lĩnh và làm chủ không gian mạng, thì chúng ta sẽ rơi vào thế bị động, chậm nhịp, thậm chí mất kiểm soát trận địa thông tin trên không gian mạng.
Thứ hai, trong bối cảnh thông tin đa chiều và nhiễu loạn, việc tăng cường sức đề kháng tư tưởng – chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn xã hội là yêu cầu sống còn. Trước thực trạng suy thoái về nhận thức, tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa sút phẩm chất đạo đức, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng có chiều hướng phát triển trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và có nguy cơ đe dọa sự sống còn của Đảng, của chế độ(14). Do đó, công tác tư tưởng cần tạo dựng cơ chế “tự bảo vệ”, phát triển năng lực tự miễn dịch trước các tác động tiêu cực, nâng cao bản lĩnh chính trị và khả năng nhận diện, phản bác các thông tin sai trái. Đây không chỉ là yêu cầu đối với cá nhân mà còn là nhiệm vụ toàn hệ thống chính trị.
Thứ ba, đổi mới công tác tư tưởng cần gắn liền với việc kết nối giữa lý luận và thực tiễn, giữa Đảng và nhân dân. Lý luận không thể xa rời đời sống mà phải trả lời những vấn đề cấp thiết đang đặt ra như: làm thế nào để phát triển bền vững trong chuyển đổi số? Vai trò và phương thức vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong môi trường số là gì? Mô hình tăng trưởng nào phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam? Làm sao để phát triển văn hóa số mà vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc?... Những câu hỏi này đòi hỏi công tác tư tưởng phải có năng lực dự báo, phân tích sâu sắc, từ đó đưa ra định hướng và giải pháp phù hợp, sát thực tiễn và gần gũi với nhân dân.
3. Các giải pháp đổi mới công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
Trong thời đại chuyển đổi số, công tác tư tưởng, lý luận đứng trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ để vừa bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, vừa định hướng tư duy, hành động trong toàn xã hội. Sự thay đổi về môi trường truyền thông, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, mạng xã hội và trí tuệ nhân tạo đã làm biến đổi căn bản phương thức tiếp cận thông tin, nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Vì vậy, việc xác lập các giải pháp toàn diện nhằm đổi mới công tác tư tưởng, lý luận là yêu cầu tất yếu để thích ứng, dẫn dắt sự phát triển đất nước trong thời đại số.
3.1. Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện, thống nhất của Đảng đối với công tác tư tưởng
Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước đang có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường – đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số và truyền thông đa phương tiện – công tác tư tưởng đang đứng trước những yêu cầu, thách thức mới. Do đó, việc tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện, thống nhất của Đảng đối với công tác tư tưởng là giải pháp mang tính quyết định nhằm giữ vững trận địa tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và định hướng dư luận xã hội.
Các cấp ủy Đảng cần xác định công tác tư tưởng là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, phải được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy, nhất là người đứng đầu. Vai trò, trách nhiệm của bí thư cấp ủy cần được thể hiện bằng hành động cụ thể: thường xuyên tổ chức sinh hoạt chính trị, hội nghị thông tin thời sự, đối thoại trực tiếp với cán bộ, đảng viên và nhân dân; chủ động nắm bắt, phân tích, dự báo và xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh về tư tưởng chính trị trong nội bộ và xã hội.
Cần phát huy vai trò tham mưu, tổ chức thực hiện của ban tuyên giáo và dân vận các cấp trong việc cụ thể hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác tư tưởng phù hợp với đặc điểm từng địa phương, đơn vị. Ban tuyên giáo và dân vận cần chủ động phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước, mặt trận tổ quốc, đoàn thể, hệ thống báo chí – truyền thông, nhằm lan tỏa thông tin chính thống, xây dựng niềm tin xã hội và nâng cao “sức đề kháng” trước các thông tin sai lệch, độc hại.
Thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên đối với việc triển khai các chủ trương của Đảng về công tác tư tưởng, từ đó phát hiện sớm những biểu hiện lệch lạc, thiếu trách nhiệm hoặc làm hình thức. Đảng cần có chế tài rõ ràng để xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm, làm suy giảm niềm tin trong nhân dân.
3.2. Ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI) trong công tác tuyên truyền
Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, việc đổi mới công tác tuyên truyền tư tưởng theo hướng hiện đại, hiệu quả là yêu cầu cấp thiết. Để thực hiện mục tiêu này, cần triển khai các nội dung, biện pháp cụ thể như sau:
Phát triển hệ sinh thái nội dung số tư tưởng – lý luận: Xây dựng các nền tảng số cung cấp nội dung tư tưởng – lý luận có chất lượng, phong phú về hình thức (bài viết, infographic, podcast, video ngắn...). Khuyến khích các cơ quan tuyên giáo và dân vận, báo chí, truyền thông phát triển kênh chính thức trên các nền tảng như Facebook, YouTube, TikTok, Zalo... nhằm lan tỏa thông tin chính thống đến các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là giới trẻ.
Tận dụng công nghệ Big Data để theo dõi và phân tích dư luận xã hội: Triển khai các hệ thống thu thập và phân tích dữ liệu lớn từ các nền tảng số để đo lường mức độ tiếp cận, tương tác và xu hướng dư luận theo thời gian thực. Căn cứ vào kết quả phân tích để điều chỉnh kịp thời nội dung tuyên truyền, chủ động định hướng thông tin, phòng ngừa và phản bác hiệu quả các thông tin sai lệch, xuyên tạc.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong sản xuất và truyền tải nội dung: Phát triển các chatbot tuyên truyền chính sách, giúp người dân dễ dàng tra cứu thông tin về chủ trương, đường lối, pháp luật, đặc biệt ở các lĩnh vực dễ bị xuyên tạc. Sử dụng AI để tạo video hoạt hình, hình ảnh minh họa, giọng nói ảo nhằm truyền tải nội dung lý luận, tư tưởng theo cách sinh động, dễ tiếp cận. Khai thác các công cụ AI hỗ trợ tổng hợp nội dung, dịch thuật, phân tích xu hướng để tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu quả truyền thông tư tưởng.
3.3. Đổi mới hình thức và nội dung tuyên truyền
Để công tác tuyên truyền tư tưởng thực sự hiệu quả trong bối cảnh hiện nay, cần thực hiện đồng bộ các nội dung, biện pháp về đổi mới hình thức và nội dung, cụ thể như sau:
Chuyển từ tuyên truyền một chiều sang mô hình tương tác – đối thoại: Tăng cường tổ chức các chương trình tọa đàm, đối thoại trực tiếp hoặc trực tuyến giữa lãnh đạo, chuyên gia với người dân, cán bộ, đảng viên để lắng nghe, giải đáp, định hướng dư luận. Phát triển các kênh truyền thông số có tính tương tác cao (livestream, podcast, diễn đàn mạng xã hội...) để dẫn dắt nhận thức trên cơ sở tôn trọng nhu cầu, thị hiếu và tâm lý tiếp nhận của từng nhóm công chúng.
Đổi mới ngôn ngữ và cách tiếp cận trong tuyên truyền: Loại bỏ lối diễn đạt khuôn mẫu, khô khan, thay vào đó sử dụng ngôn ngữ truyền cảm, dễ hiểu, gần gũi với từng đối tượng như thanh niên, công nhân, nông dân, trí thức...Sáng tạo các hình thức truyền thông hấp dẫn như phim ngắn, câu chuyện kể, nhân vật truyền cảm hứng, minh họa trực quan… giúp nội dung tư tưởng – lý luận dễ đi vào đời sống.
Gắn nội dung tuyên truyền với thực tiễn và nguyện vọng nhân dân: Tập trung vào các vấn đề thiết thực như đời sống, việc làm, giáo dục, y tế, môi trường, từ đó định hướng tư tưởng gắn liền với quyền lợi và trách nhiệm công dân. Chủ động phát hiện, tuyên truyền những tấm gương người tốt, việc tốt, mô hình tiêu biểu, điển hình đổi mới để lan tỏa năng lượng tích cực, củng cố niềm tin xã hội.
Cải tiến mạnh mẽ nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị: Thiết kế lại tài liệu, giáo trình lý luận chính trị theo hướng sinh động, minh họa bằng các tình huống thực tiễn và các dẫn chứng gần gũi. Tổ chức các lớp bồi dưỡng, học tập nghị quyết bằng hình thức linh hoạt như học trực tuyến, học qua video ngắn, infographic... phù hợp với từng nhóm đối tượng.
3.4. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận
Lý luận cách mạng phải bắt nguồn từ thực tiễn sinh động của đời sống đất nước và thế giới. Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này, cần triển khai các nội dung, biện pháp cụ thể như sau:
Tổ chức các chương trình tổng kết thực tiễn quy mô lớn và có chiều sâu: Trước mắt, cần chú trọng việc nghiên cứu, tham gia đóng góp ý kiến có chất lượng xây dựng các dự thảo văn kiện đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 và Đại hội XIV của Đảng. Triển khai tổng kết 40 năm công cuộc đổi mới và 50 năm phát triển văn hóa – nghệ thuật sau thống nhất đất nước một cách toàn diện, có hệ thống, khoa học. Tập trung đánh giá những thành tựu, hạn chế, bài học kinh nghiệm trong các lĩnh vực then chốt như kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và an ninh quốc phòng.
Phát triển lý luận gắn với các vấn đề mới trong thực tiễn cách mạng: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống lý luận về các vấn đề như: phát triển bền vững trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, chuyển đổi số và quản trị xã hội trong môi trường số, phát triển văn hóa – con người, công tác xây dựng Đảng trong không gian mạng...Nghiên cứu sâu các xu thế toàn cầu như AI, toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, từ đó đề xuất các mô hình phát triển lý luận phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Đổi mới cơ chế phản biện chính sách: Thiết lập các diễn đàn học thuật, hội thảo khoa học định kỳ với sự tham gia rộng rãi của đội ngũ trí thức, nhà khoa học, chuyên gia trong và ngoài nước. Khuyến khích các cơ quan nghiên cứu lý luận – chính trị phát huy vai trò trung tâm phản biện, đề xuất chính sách trên cơ sở khoa học và thực tiễn.
Huy động trí tuệ toàn dân trong xây dựng văn kiện Đại hội Đảng: Tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên, trí thức, doanh nhân, văn nghệ sĩ... đối với dự thảo văn kiện Đại hội Đảng các cấp và tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Coi trọng việc tiếp thu, chắt lọc ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân để hoàn thiện hệ thống quan điểm, chủ trương, định hướng phát triển phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới.
Đổi mới công tác nghiên cứu lý luận trong các cơ quan chuyên trách: Tăng cường đầu tư nguồn lực cho các viện nghiên cứu lý luận, trường chính trị, cơ quan tuyên giáo các cấp để nâng cao chất lượng sản phẩm khoa học – lý luận. Khuyến khích hợp tác quốc tế trong nghiên cứu lý luận nhằm tiếp thu tinh hoa trí tuệ nhân loại và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam.
3. 5. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư tưởng vừa hồng, vừa chuyên
Đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng đóng vai trò nòng cốt trong việc giữ vững trận địa tư tưởng, bảo vệ nền tảng lý luận của Đảng. Trong bối cảnh chuyển đổi số và truyền thông đa chiều, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng đội ngũ cán bộ tư tưởng có bản lĩnh chính trị vững vàng, chuyên sâu về lý luận, am hiểu công nghệ và nhạy bén với đời sống xã hội. Để thực hiện mục tiêu này, cần triển khai các nội dung, biện pháp cụ thể như sau:
Đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư tưởng: Xây dựng chương trình đào tạo hiện đại, tích hợp kiến thức lý luận chính trị với kỹ năng truyền thông, công nghệ số, xử lý khủng hoảng truyền thông, nghiên cứu dư luận xã hội...Tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên đề theo nhóm đối tượng cụ thể (cán bộ cơ sở, tuyên giáo cấp tỉnh, báo chí, truyền thông...), bảo đảm sát với thực tiễn, có tính ứng dụng cao. Cập nhật thường xuyên nội dung đào tạo theo các xu hướng tư tưởng mới, tình hình chính trị - xã hội trong nước và thế giới.
Phát triển đội ngũ cán bộ tư tưởng có tâm, tầm, trí: Tuyển chọn, đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ tư tưởng có nền tảng lý luận vững, đồng thời thành thạo công nghệ truyền thông, có khả năng sáng tạo nội dung số. Khuyến khích cán bộ tư tưởng nghiên cứu, viết bài, phát biểu trên các nền tảng truyền thông chính thống và mạng xã hội, nhằm lan tỏa giá trị tư tưởng tích cực.
Phát hiện, thu hút và phát triển đội ngũ trí thức, tài năng trẻ: Xây dựng cơ chế tuyển dụng đặc cách, đặt hàng nghiên cứu, tạo môi trường sáng tạo để thu hút người trẻ tài năng tham gia lĩnh vực tư tưởng – lý luận. Khuyến khích các viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo, cơ quan báo chí hợp tác với các nhà nghiên cứu trẻ, nhóm sáng tạo nội dung để tạo ra sản phẩm truyền thông lý luận hấp dẫn.
Tăng cường rèn luyện phẩm chất, năng lực người làm công tác tư tưởng: Mỗi cán bộ tư tưởng phải gương mẫu trong nhận thức, hành động, phong cách sống và phương pháp làm việc; thực sự gần dân, trọng dân, lắng nghe dân và vì dân. Tăng cường kiểm tra, đánh giá định kỳ về bản lĩnh chính trị, năng lực tư duy và khả năng xử lý vấn đề tư tưởng – truyền thông trong các tình huống thực tế.
Đầu tư chính sách và tạo môi trường làm việc để giữ chân và phát triển cán bộ giỏi: Có chính sách đãi ngộ xứng đáng cho cán bộ tư tưởng, đặc biệt là người làm việc ở địa bàn khó khăn, lĩnh vực đặc thù hoặc có đóng góp xuất sắc. Bảo vệ và khuyến khích cán bộ “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung” theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII.
Tổ chức đánh giá thực trạng, xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ tư tưởng: Tiến hành rà soát, đánh giá toàn diện đội ngũ cán bộ tư tưởng từ Trung ương đến cơ sở: số lượng, chất lượng, độ tuổi, chuyên môn, nhu cầu đào tạo... Xây dựng quy hoạch, lộ trình phát triển đội ngũ theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
3. 6. Làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức đúng về cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị.
Công tác tư tưởng phải bám sát quá trình tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII), “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Theo đó, cần chủ động, đi trước định hướng dư luận xã hội để việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhanh chóng được thực thi trong toàn hệ thống chính trị. Chủ động tổ chức gặp gỡ, đối thoại trực tiếp, cung cấp thông tin, giải đáp thắc mắc, làm tốt công tác tư tưởng, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động bị ảnh hưởng từ việc tinh gọn bộ máy. Thông qua chi bộ, đảng viên để nắm bắt bức xúc, mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển; xử lý ngay từ sớm, từ manh nha bức xúc nổi lên ở từng địa bàn, lĩnh vực tác động đến tư tưởng, tâm trạng xã hội và mong muốn, nguyện vọng của nhân dân, nhất là trước chủ trương chiến lược ngay từ cơ sở, để kịp thời tham mưu, định hướng chỉ đạo tuyên truyền, góp phần làm ổn định tình hình. Gắn kết chặt chẽ giữa công tác tư tưởng, công tác tổ chức - cán bộ và công tác chính sách; khẳng định đây là cuộc cách mạng tạo động lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
4. Kết luận
Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số không chỉ là nhiệm vụ thường xuyên mà đã trở thành một đòi hỏi chiến lược, mang tính sống còn với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đổi mới công tác này chính là góp phần làm giàu thêm bản lĩnh chính trị, trí tuệ, văn hóa của Đảng, tăng cường sức mạnh mềm của quốc gia, tạo động lực tinh thần to lớn cho công cuộc phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời kỳ mới.
Chúng ta tin tưởng rằng, với tinh thần chủ động đổi mới, sáng tạo, gắn bó với thực tiễn và lòng trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng, công tác tư tưởng, lý luận sẽ tiếp tục giữ vững vai trò tiên phong, đưa khát vọng phát triển thành hiện thực, góp phần xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc./.
__________________________________
(1) C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.580.
(2) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. 7, tr. 415
(3) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 554 - 555
(4) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 279
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 41 – 42
(6), (7), (12), (13) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, tr.40 – 41, 181, 92, 108.
(8) Hiến Pháp năm 2013 sửa đổi bổ sung năm 2025 (2025), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật. H.
(9) Quốc hội (2018), Luật an ninh mạng, Luật số 24/2018/QH14 của Quốc hội.
(10) Quốc hội (2016), Điều 4 Luật Báo chí, Luật số 103/2016/QH13 của Quốc hội.
(11) Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. 61, tr. 310 – 311.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
- Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
- Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
- Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
Xem nhiều
-
1
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
2
[Video] Lễ diễu binh, diễu hành 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9
-
3
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
4
Tác động của quảng cáo sản phẩm trên mạng xã hội đến hành vi mua sắm của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
-
5
Thông điệp “Ý Đảng, Lòng Dân” trong các chương trình xây dựng Đảng trên truyền hình
-
6
[Ảnh] Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025-2030 (Phiên thứ nhất)
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Vẫn có những luận điệu lạc lõng trong dịp Quốc khánh 2 - 9 thiêng liêng
Trong không khí tự hào, phấn khởi của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và bà con Việt kiều ở nước ngoài hân hoan chào mừng kỷ niệm 80 năm Ngày Quốc khánh thì trên mạng xã hội vẫn có những thông tin lệch lạc, tiếng nói lạc lõng, ý kiến bình luận xuyên tạc nhằm phủ nhận tinh thần bất diệt của ngày lịch sử trọng đại và giá trị văn hóa tốt đẹp của ngày Tết Độc lập ở Việt Nam.
Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
Công tác tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển đổi số
Công tác tư tưởng, lý luận luôn là bộ phận cốt lõi trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới toàn diện công tác tư tưởng, lý luận để vừa giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, vừa thích ứng linh hoạt với sự thay đổi sâu rộng trong xã hội, khoa học – công nghệ và truyền thông.
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Tỉnh Lạng Sơn, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, giữ vị trí chiến lược trong công tác bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số. Trong thời gian qua, tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Lạng Sơn đã có những đóng góp tích cực vào quá trình quản lý nhà nước về văn hóa DTTS thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phong trào thanh niên và tham gia giám sát chính sách. Những kết quả đạt được bước đầu thể hiện vai trò nhất định của Đoàn trong việc kết nối giữa chính quyền và thanh niên DTTS. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy nhiều hạn chế như thiếu cơ chế phối hợp, chưa được thể chế hóa vai trò, năng lực cán bộ còn bất cập và thiếu nguồn lực bảo đảm hoạt động bền vững. Trên cơ sở phân tích thực trạng, bài viết tập trung làm rõ vai trò của tổ chức Đoàn trong quản lý nhà nước về văn hóa DTTS tại Lạng Sơn, đồng thời đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy hiệu quả hơn nữa vai trò này trong bối cảnh chuyển đổi mô hình quản trị hiện nay, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững văn hóa vùng dân tộc.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứTư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, việc xây dựng lực lượng sản xuất mới trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam. Trong đó, nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò then chốt, quyết định khả năng tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo khoa học – công nghệ, thúc đẩy năng suất lao động, đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Bài viết tập trung làm rõ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay - nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở nước ta.
Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
Sự hình thành và phát triển của các hội là một phương thức cần thiết để các cá nhân và nhóm xã hội khác nhau có thể bày tỏ tiếng nói, ý kiến của mình trước cộng đồng xã hội, tạo sự hiểu biết, hiệp thương và đồng thuận nhằm giữ gìn sự ổn định xã hội. Ở Việt Nam, quyền lập hội của công dân đã được Hiến pháp quy định và trong thực tế Nhà nước đã tạo điều kiện cho hội hoạt động, phát triển qua việc ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh việc tổ chức và hoạt động của các hội. Bài viết đề cập đến khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của các hội trong bối cảnh phát triển ở Việt Nam hiện nay.
Bình luận