Nâng cao hiệu quả triển khai thực hiện Nghị định số 154/2024/NĐ-CP của Chính phủ ngày 26/11/2024 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú
Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang vươn mình sang kỷ nguyên số và hội nhập sâu rộng với quốc tế, hoạt động quản lý nhà nước về cư trú cần được hiện đại hóa theo hướng ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật và có phương thức quản lý mới phù hợp với tình hình thực tế. Nhằm tạo cơ sở pháp lý để hiện thực hóa mục đích nêu trên, ngày 13/11/2020, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Cư trú năm 2020 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2021, với nội dung quy định hoàn toàn mới về phương pháp quản lý cư trú: công dân được đăng ký và quản lý trên hệ thống phần mềm, thay thế từ quản lý hồ sơ sổ sách thủ công bằng giấy sang quản lý bằng hệ thống phần công nghệ thông tin, bỏ quản lý công dân qua sổ hộ khẩu, sổ tạm trú bằng việc cập nhật thông tin vào Cơ sở dữ liệu về cư trú. Điều này đã đánh dấu bước tiến quan trọng, đột phá nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về cư trú theo hướng ứng dụng mạnh mẽ, hiệu quả khoa học công nghệ vào công tác đăng ký cư trú, quản lý thông tin công dân trên Cơ sở dữ liệu qua đó phục vụ hiệu quả yêu cầu quản lý hành chính về trật tự xã hội, yêu cầu quản lý dân cư trong tình hình mới.
1. Sự cần thiết ban hành Nghị định số 154/2024/NĐ-CP ngày 26/11/2024 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú
Để triển khai Luật Cư trú năm 2020 đồng bộ và thống nhất, với chức năng, nhiệm vụ của mình ngay sau Luật Cư trú năm 2020 được Quốc hội thông qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 62/2021/NĐ-CP ngày 29/6/2021 quy định chi tiết một số điều của Luật Cư trú để kịp thời có hiệu lực thi hành cùng Luật Cư trú năm 2020 từ ngày 01/7/2021. Song song trong thời gian xây dựng Luật Cư trú và các văn bản hướng dẫn thi hành, Chính phủ cũng chỉ đạo Bộ Công an xây dựng và vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bảo đảm điều kiện vật chất kỹ thuật đầy đủ từ Trung ương đến địa phương đáp ứng yêu cầu triển khai Luật Cư trú.
Tiếp tục bước tiến lớn hơn nữa trong phát triển công nghệ số, ngày 06/01/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 06/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến 2030”, trong đó bổ sung nhiều nội dung cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm phục vụ chuyển đổi số quốc gia, đặc biệt là việc đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến, đòi hỏi thành phần hồ sơ, thủ tục hành chính phải được quy định phù hợp với hình thức nộp qua dịch vụ công trực tuyến để người dân thuận lợi khi thực hiện. Đồng thời, Quốc hội khóa XV đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan trực tiếp tới quy định của pháp luật về cư trú như Luật Giao dịch điện tử, Luật Căn cước, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Đất đai, Luật Dữ liệu. Những thay đổi này, có tác động trực tiếp đến quy định tại Nghị định số 62/2021/NĐ-CP ngày 29/6/2021: nó đòi hỏi đòi hỏi phải điều chỉnh quy định về Cơ sở dữ liệu về cư trú, phương thức tiếp nhận hồ sơ để giải quyết đăng ký cư trú và quy định về giấy tờ, tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp để đăng ký cư trú cho công dân cho phù hợp với quy định mới của các văn bản pháp luật có liên quan.
Qua 03 năm triển khai thực hiện Luật Cư trú, Nghị định số 62/2021/NĐ-CP và các đã góp phần mang lại kết quả đáng khích lệ trong thực hiện Luật Cư trú, đặc biệt trong giai đoạn chuyển đổi số hiện nay. Tuy nhiên, qua thực tiễn thấy rằng, quy định của Nghị định vẫn còn bất cập, hạn chế cần được sửa đổi, bổ sung như Luật Cư trú quy định trường hợp đăng ký thường trú vào chỗ ở hợp pháp không phải của mình thì phải có ý kiến đồng ý của chủ sở hữu, tuy nhiên nhiều trường hợp nhà ở hiện nay chưa xác định được chủ sở hữu do chưa phân chia thừa kế, đang có tranh chấp hoặc chủ sở hữu đi nước ngoài; nhà xây dựng chưa được cấp phép nên qua xác minh Ủy ban nhân dân cấp xã không xác nhận hoặc xác nhận với nội dung nhà đang được sử dụng xây dựng không phép, không xác nhận nhà không có tranh chấp hoặc cơ sở tôn giáo có nhà ở là công nhận phụ trợ; Chưa có quy định về thời gian bắt buộc phải đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú hoặc khai báo thông tin về cư trú cho trẻ em mới sinh; chưa có quy định cụ thể về đăng ký cư trú cho người chưa thành niên để thống nhất thực hiện;...
Mặt khác, đến nay, khi hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia, Cơ sở dữ liệu chuyên ngành của các bộ, ngành đang được xây dựng, hình thành và đưa vào sử dụng cần cụ thể hóa hơn để thuận lợi trong quá trình thực hiện thủ tục cư trú cho cả cơ quan quản lý và người dân.
Xuất phát từ những lý do nêu ngày 26/11/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 154/2024/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú thay thế Nghị định số 62/2021/NĐ-CP.
2. Những điểm mới của Nghị định số 154/2024/NĐ-CP ra đời với những điểm mới sau:
Thứ nhất, về tên tiêu đề Nghị định số 154/2024/NĐ-CP đã có sự điều chỉnh so với Nghị định số 62/2021/NĐ-CP với phạm vi rộng hơn. Nếu như Nghị định số 62/2021/NĐ-CP là “Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Cư trú” thì Nghị định số 154/2024/NĐ-CP là “Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú” ngoài các nội dung được Luật Cư trú giao Chính phủ quy định chi tiết, Nghị định số 154/2024/NĐ-CP còn hướng dẫn thi hành một số nội dung đăng ký, quản lý cư trú để thống nhất trong triển khai thực hiện trên toàn quốc.
Thứ hai, quy định đổi mới về phương thức xin cấp xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về xác nhận nơi thường xuyên đậu đỗ và dùng vào mục đích để ở của phương tiện. Nghị định điều chỉnh, bổ sung làm rõ quy định về nơi cư trú của người sinh sống, người làm nghề lưu động trên tàu, thuyền hoặc phương tiện khác có khả năng di chuyển, đồng thời để đơn giản hóa, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân không phải đi lại nhiều lần số Nghị định số 154/2024/NĐ-CP đã quy định: công dân không phải tự xin ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận nơi thường xuyên đậu đỗ mà công dân nộp hồ sơ đăng ký cư trú và Tờ khai đề nghị xác nhận nơi thường xuyên đậu, đỗ; sử dụng phương tiện vào mục đích để ở đến cơ quan đăng ký cư trú. Cơ quan quan đăng ký cư trú có trách nhiệm chuyển Tờ khai đến Ủy ban nhân dân cấp xã. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được Tờ khai, Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, xác nhận, trường hợp từ chối giải quyết thì phải trả lời bằng văn bản, nêu rõ lý do và chuyển các văn bản này cho cơ quan đăng ký cư trú để xem xét, giải quyết đăng ký cư trú cho công dân.
Nghị định bổ sung quy định biểu mẫu Tờ khai đề nghị xác nhận nơi thường xuyên đậu, đỗ; sử dụng phương tiện vào mục đích để ở (theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị định) để thống nhất sử dụng chung trên toàn quốc. Nghị định cũng quy định cụ thể 03 hình thức tiếp nhận hồ sơ (trực tiếp, trực tuyến hoặc dịch vụ bưu chính công ích) để người dân có thể lựa chọn hình thức phù hợp nhất với mình để thực hiện. Đặc biệt, riêng trường hợp chủ phương tiện đã có hợp đồng thuê bến bãi hoặc văn bản chấp thuận cho phương tiện đậu, đỗ của cơ quan, tổ chức quản lý nơi đậu, đỗ thì không phải đăng ký.
Thứ ba, bổ sung quy định phương thức nộp hồ sơ thủ tục khai báo thông tin về cư trú: Nghị định bổ sung quy định về việc người không có nơi thường trú, nơi tạm trú khai báo thông tin về cư trú theo mẫu Tờ khai thay đổi thông tin cư trú và nộp trực tuyến, trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính công ích đến cơ quan đăng ký cư trú tại nơi ở hiện tại theo quy định tại Điều 19 Luật Cư trú thay vì quy định chỉ khai báo trực tiếp như Nghị định số 62/2021/NĐ-CP.
Thứ tư, quy định về sử dụng thông tin, dữ liệu đã có tại các cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin để giải quyết thủ tục hành chính mà không yêu cầu công dân xuất trình giấy tờ. Nhằm cải cách, cắt giảm về việc nộp, xuất trình giấy tờ, tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp; giấy tờ, tài liệu, thông tin chứng minh quan hệ nhân thân Nghị định quy định: cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm căn cứ vào thông tin chứng minh về quan hệ nhân thân với chủ hộ, thành viên hộ gia đình do công dân cung cấp để khai thác trong căn cước điện tử, tài khoản định danh điện tử trên hệ thống định danh và xác thực điện tử qua Ứng dụng định danh quốc gia hoặc trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú, Kho quản lý dữ liệu điện tử tổ chức, cá nhân trên Cổng dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh hoặc cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác mà không yêu cầu công dân nộp giấy tờ, tài liệu.
Thứ năm, hướng dẫn chi tiết một số nội dung về đăng ký cư trú cho người chưa thành niên: Đây một trong những nội dung quy định hoàn toàn mới được giải quyết vấn đề vướng mắc thực tiễn được đưa vào quy định cụ thể tại Nghị định số 154/2024/NĐ-CP để thuận lợi cho người dân và thống nhất thực hiện trên phạm vi toàn quốc, cụ thể:
(1) Để phù hợp với quy định tại Điều 12 Luật Cư trú về nơi cư trú của người chưa thành niên, Nghị định quy định làm rõ về trường hợp người chưa thành niên đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú tại nơi thường trú, nơi tạm trú của cha, mẹ hoặc cha hoặc mẹ thì cha hoặc mẹ hoặc người giám hộ thực hiện kê khai, xác nhận ý kiến vào Tờ khai thay đổi thông tin cư trú. Trường hợp người chưa thành niên đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú tại nơi thường trú, nơi tạm trú không phải là nơi thường trú, nơi tạm trú của cha, mẹ hoặc người giám hộ thì cha hoặc mẹ hoặc người giám hộ thực hiện kê khai, xác nhận ý kiến vào Tờ khai thay đổi thông tin cư trú. Trường hợp người chưa thành niên được Tòa án quyết định giao cho cha hoặc mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng thì người được giao chăm sóc, nuôi dưỡng kê khai, xác nhận ý kiến vào Tờ khai thay đổi thông tin cư trú.
(2) Nghị định cũng quy định trong thời hạn tối đa 60 ngày kể từ khi người chưa thành niên được đăng ký khai sinh thì cha hoặc mẹ hoặc chủ hộ hoặc người giám hộ có trách nhiệm thực hiện đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú, đăng ký tạm trú, khai báo thông tin về cư trú cho người chưa thành niên. Đặc biệt, quy định tạo điều kiện đăng ký cư trú cho người chưa thành niên mới sinh chưa được đăng ký cư trú bảo đảm quyền của trẻ em về cư trú.
Thứ sáu, quy định chi tiết về lấy ý kiến chủ sở hữu: Nghị định quy định rõ một số nội dung liên quan đến đăng ký, quản lý cư trú tạo thuận lợi trong triển khai thực hiện như: (1) làm rõ quy định về đăng ký thường trú vào chỗ ở hợp pháp trường hợp công dân đăng ký thường trú vào chỗ ở hợp pháp thuộc quyền sở hữu của mình mà chỗ ở hợp pháp đó có nhiều hơn một chủ sở hữu thì không cần có ý kiến đồng ý của những người đồng sở hữu còn lại; (2) quy định chi tiết về lấy ý kiến của chủ sở hữu khi đăng ký thường trú vào chỗ ở hợp pháp không thuộc sở hữu của mình; lấy ý kiến của chủ sở hữu khi chủ sở hữu là người bị mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của Bộ luật Dân sự, người dưới 18 tuổi, người bị tuyên bố mất tích, người đã chết; (3) quy định các phương thức lấy ý kiến đồng ý của chủ hộ, chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp, người đại diện hợp pháp, người thừa kế theo quy định pháp luật, cha, mẹ, người giám hộ khác nhau để người dân có nhiều lựa chọn và lựa chọn phương thức phù hợp nhất với mình; (4) quy định cụ thể về hồ sơ đăng ký cư trú với các trường hợp khác nhau khi đăng ký thường trú đến chỗ ở hợp pháp mới; các trường hợp bị hủy đăng ký cư trú; việc trách nhiệm quản lý công dân bị xóa đăng ký thường trú, nơi tạm trú mà chưa xác định được nơi ở hiện tại.
Thứ bảy, quy định tạo hành lang pháp lý làm căn cứ để ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện thực hiện một số nội dung quy định tại Luật Cư trú. Nghị định cũng bổ sung quy định về trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã. Theo đó Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết yêu cầu xác nhận nơi thường xuyên đậu, đỗ; sử dụng phương tiện vào mục đích để ở hoặc văn bản chấp thuận cho phương tiện đậu, đỗ; Xác nhận thông tin quan hệ nhân thân, thông tin về tình trạng sức khỏe, thông tin về chỗ ở hợp pháp, không có tranh chấp, bảo đảm diện tích bình quân để đăng ký thường trú cho công dân trên cơ sở đề xuất của công chức tư pháp - hộ tịch, địa chính, Công an cấp xã; Cập nhật thông tin về hộ tịch, cấp giấy tờ liên quan đến nhân thân cho công dân theo thẩm quyền bảo đảm chính xác, kịp thời, phù hợp, thống nhất với thông tin của công dân trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú.
Thứ tám, sửa đổi, bổ sung quy định về điều kiện, thủ tục xóa đăng ký thường trú, xóa đăng ký tạm trú. Nnhằm đảm bảo dữ liệu công dân luôn được cập nhật kịp thời, chính xác phục vụ quản lý và phát triển xã hội trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới khi các cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin của các cơ quan được kết nối, liên thông hoàn toàn với nhau, Nghị định 154/2024/NĐ-CP quy định trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư tiếp nhận thông tin phản ánh về người thuộc trường hợp bị xóa đăng ký thường trú, xóa đăng ký tạm trú (quy định tại khoản 1 Điều 24, khoản 1 Điều 29 Luật Cư trú), cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm kiểm tra, xác minh, thực hiện xóa đăng ký thường trú, xóa đăng ký tạm trú đối với công dân và cập nhật việc xóa đăng ký thường trú vào Cơ sở dữ liệu về cư trú, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thay vì cơ quan đăng ký cư trú phải thông báo để công dân lên làm thủ tục xóa đăng ký thường trú, xóa đăng ký tạm trú khi đã quá thời hạn không lên mới lập biên bản để xóa như trước đây.
3. Giải pháp nhằm triển khai thực hiện Nghị định số 154/2024/NĐ-CP
Nghị định số 154/2024/NĐ-CP ra đời đã giải quyết được những vấn đề còn nhiều vướng mắc trong quá trình triển khai Luật Cư trú năm 2020, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi sang khai thác, sử dụng dữ liệu điện tử phục vụ đăng ký, quản lý cư trú cho phù hợp với tình hình thực tiễn và thay đổi đồng bộ với các lĩnh lực khác từ đó đảm bảo tốt hơn nữa quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; nâng cao hiệu quả quản lý dân cư và quản lý xã hội. Để triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị định 154/2024/NĐ-CP trong thời gian tới hiệu quả, đúng tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024, Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 và đáp ứng yêu cầu về sắp xếp bộ máy hành chính mới cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một, cơ quan có thẩm quyền cần phối hợp chặt chẽ với các đơn vị có liên quan thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật; việc tuyên truyền pháp luật cần thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau đảm bảo đến được với người dân. Đưa các nội dung quy định tại Nghị định số 154/2024/NĐ-CP đặc biệt là những nội dung quy định mới của Nghị định so với Nghị định số 62/2021/NĐ-CP ngày 29/6/2021 quy định chi tiết một số điều của Luật Cư trú tới các cơ quan, đơn vị có liên quan và người dân để nắm, xác định được nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình để thực hiện.
Hai, cần tiếp tục rà soát các quy định của Nghị định số 154/2024/NĐ-CP để đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với chủ trương về bỏ công an cấp huyện và sắp xếp bộ máy tổ chức hành chính mới. Nghiên cứu, rà soát, kịp thời điều chỉnh hệ thống phần mềm và có phương án xử lý nếu có thay đổi về địa giới hành chính mới đảm bảo sự ổn định trong hoạt động quản lý cư trú.
Ba, triển khai cung cấp các dịch vụ dân cư và dịch vụ công mức độ 4 trong công tác đăng ký quản lý cư trú. Phối hợp chặt chẽ các bộ, ngành liên quan việc khai thác thông tin trong các Cơ sở dữ liệu quốc gia Cơ sở dữ liệu chuyên ngành và hệ thống thông tin… phục vụ giải quyết thủ tục hành chính về cư trú cho người dân.
Bốn, thường xuyên tổ chức tập huấn về nội dung quy định mới của Nghị định số 154/2024/NĐ-CP và những thay đổi của phần mềm tới cán bộ, chỉ huy trực tiếp làm công tác đăng ký cư trú bằng hình thức trực tiếp, trực tuyến hoặc qua các phần mềm ứng dụng. Thường xuyên chấn chỉnh, nâng cao ý thức nghiệp vụ, tác phong, lề lối làm việc của cán bộ làm công tác đăng ký, quản lý cư trú. Phát hiện, xử lý nghiêm các cán bộ vi phạm, phiền hà, tiêu cực, sách nhiễu nhân dân trong khi thực hiện công tác đăng ký, quản lý cư trú.
Năm, tăng cường thực hiện đồng bộ các giải pháp để bổ sung, cập nhật thường xuyên thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bảo đảm thông tin luôn “đúng, đủ, sạch, sống”, cung cấp dữ liệu chính xác cho các ngành, các cấp nói chung và cho ngành Công an nói riêng trong xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số và phục vụ nhân dân.
Sáu, thường xuyên thực hiện việc sơ kết, tổng kết và thanh tra, kiểm tra việc thực hiện công tác đăng ký, quản lý cư trú, thực hiện Nghị định số 154/2024/NĐ-CP để phát hiện những sơ hở, thiếu sót để khắc phục và xử lý kịp thời. Tăng cường hợp tác quốc tế về cư trú, học hỏi những phương pháp quản lý hay, sáng tạo để vận dụng vào công tác quản lý cư trú tại Việt Nam từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý cư trú, nắm hộ, nắm người đảm bảo tốt hơn nữa quyền cư trú của người dân, góp phần giữ gìn an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội./.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
-
2
Nâng cao chất lượng thực hành nghề nghiệp cho sinh viên ngành công tác xã hội tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
-
3
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
-
4
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
-
5
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
-
6
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
Báo chí đa nền tảng (Multi platform journalism) đã trở thành xu hướng tất yếu trên thế giới và tại Việt Nam những năm gần đây. Tại Việt Nam, sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu 70% cơ quan báo chí đưa nội dung lên các nền tảng số vào năm 2025 và 100% vào năm 2030, báo chí đa nền tảng càng được các tòa soạn đầu tư phát triển, tập trung vào ba nền tảng chính: nền tảng xã hội (social), nền tảng di động (mobile), nền tảng web. Bài viết sẽ đi sâu vào nghiên cứu về sự phát triển của xu hướng báo chí đa nền tảng ở Việt Nam hiện nay, những vấn đề đặt ra ở góc độ nguồn nhân lực, từ đó, đề xuất một số giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực báo chí truyền thông đáp ứng nhu cầu phát triển báo chí đa nền tảng tại Việt Nam.
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tên của Tổng thống Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Tổng thống Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Tổng thống Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Bình luận