(LLCT&TT) Ngày 9/2/2022, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp Hội đồng Lý luận Trung ương và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã tổ chức lễ ra mắt cuốn sách: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Nội dung cuốn sách thể hiện tầm cao trí tuệ bàn về những vấn đề thực tiễn rất sinh động và giá trị lý luận chân thực về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đóng góp to lớn trong công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới, góp phần xứng đáng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay. Đây là cơ sở để quán triệt, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và đông đảo nhân dân về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tạo nên sự đồng thuận, thống nhất trong xã hội nhằm phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên dưới một lòng quyết tâm thực hiện thành công chiến lược Đại hội Đảng XIII đã đề ra.
Cuốn sách đã nhận được sự đánh giá cao từ các nhà lãnh đạo, giới học giả, chuyên gia trong nước và quốc tế dưới nhiều góc độ, khía cánh khác nhau. Từ góc độ của những người làm công tác nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị và báo chí, truyền thông thuộc hệ thống trường Đảng, nội dung cuốn sách đã thực sự mang đến cho chúng ta những bài học có ý nghĩa đặc biệt. Cụ thể là:
1. Bài học về không ngừng hoàn thiện nhận thức lý luận
Trong nội cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, với các bài nói, những bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong các sự kiện quan trọng của Đảng, Nhà nước, được tập hợp lại, đã thể hiện một tầm nhìn sâu rộng và những nhận thức sâu sắc về bản chất của chủ nghĩa xã hội cũng như sự lựa chọn sáng suốt, đúng đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong việc kiên định vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc và đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Về CNXH, thông qua cuốn sách của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, những nội dung mang tính khái quát về những thành tựu quan trọng, cơ bản của Đảng ta trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với điều kiện từng giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể ở nước ta đã được khái quát, đúc kết cô đọng, súc tích. Từ học thuyết cách mạng và khoa học của Mác và Ăngghen, được Lênin vận dụng thành công trong cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, đã tiếp tục đưa lý thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học trở thành hiện thực thể hiện bằng sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Điều này đã trở thành động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của lịch sử nhân loại theo hướng tiến bộ, nhân văn, vì sự công bằng, hạnh phúc và hướng đến mục tiêu phát triển ngày càng toàn diện con người. Từ thực tiễn phát triển của chủ nghĩa xã hội trên thế giới và thực tiễn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sâu sắc rằng: “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để các vấn đề độc lập dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm nó hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”(1).
Về lựa chọn con đường đi lên CNXH, từ sự nhận thức sâu sắc về hệ giá trị tốt đẹp của CNXH, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường phát triển CNXH cho Việt Nam, tổ chức bồi dưỡng và rèn luyện những người con ưu tú của Đảng Cộng sản từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, vượt qua muôn vàn gian khổ và hi sinh, từng bước hiện thực hoá những giá trị lý luận đó thành thực tiễn sinh động trên đất nước ta; những giá trị ấy không chỉ được tổng kết về mặt lý luận mà còn được kiểm chứng bằng thực tiễn sinh động của công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước ta. Đó là, một xã hội mà sự phát triển thực sự vì con người chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người; đó là một xã hội phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội; đó là một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải sự cạnh tranh “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích phe nhóm; đó là xã hội hướng tới sự phát triển bền vững, hài hoà với thiên nhiên để đảm bảo môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn và huỷ hoạt môi trường; và đặc biệt đó là xã hội có hệ thống chính trị mà quyền lực thuộc về nhân dân, do dân và phục vụ lợi ích của nhân dân. Đây chính là hệ giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội, đã hiện thực hoá mong ước tốt đẹp của toàn thể nhân dân và đây cũng chính là mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như của Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên trì, kiên định và quyết tâm theo đuổi.
Bên cạnh việc làm nổi bật hệ giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, để có cơ sở nhận thức rõ ràng và sâu sắc hơn về bản chất xã hội chủ nghĩa, tác giả cuốn sách còn cho chúng ta thấy về mặt đối lập với những giá trị tốt đẹp của CNXH. Cụ thể là, từ trang 17 đến 22 tác giả đã phác hoạ những đặc điểm cơ bản trong mâu thuẫn về “nghịch lý phát triển” của CNTB và những ảnh hưởng của nó đến đời sống, kinh tế, chính trị của người dân. Trong một xã hội với nền kinh tế đề cao tối đa lợi nhuận, lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, thì đó chính là nguyên nhân gây ra sự khủng hoảng kinh tế kéo theo các phong trào phản kháng trong xã hội tại nhiều nước tư bản trong thời gian gần đây chứng minh “sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực tế”; làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mô hình phát triển vốn xưa nay được coi là thời thượng, được không ít các chính khách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý. Những phân tích về mâu thuẫn về “nghịch lý phát triển” của CNTB từ căn nguyên cố hữu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vốn luôn đề cao tối đa hoá lợi nhuận, tác giả cuốn sách đã đưa chúng ta đến gần hơn cái nhìn khách quan và toàn diện về sự tốt đẹp của CNXH.
Về bản chất chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay: Có thể nhận thấy, sự gắn kết các phương diện lý luận một cách cô đọng, dễ hiểu mà vẫn bao quát được các vấn đề của thực tiễn lịch sử là bằng chứng chứng minh sự thông tuệ trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội của người đứng đầu Đảng ta. Trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực tiễn đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã hình thành được những nhận thức tổng quan về chủ nghĩa xã hội với 8 đặc trưng cơ bản đó là: “Xã hội XHCN mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh; do Nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới(2). Đây là những đặc trưng cơ bản, bản chất của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là thành tựu phát triển sáng tạo lý luận riêng có của Đảng ta được đúc kết từ sự nghiệp đấu tranh và phát triển lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong suốt các giai đoạn cách mạng kể từ khi Đảng ta được thành lập đến nay. Đây chính là thành quả của sự phát triển lý luận, và ngày càng bổ sung một cách toàn diện lý luận về bản chất mô hình CNXH ở nước ta hiện nay.
2. Bài học về không ngừng bổ sung nhận thức thực tiễn
Đúng như mục đích xuất bản của cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, những ai đã được tiếp cận cuốn sách đều thấy rõ, ngoài bài học phục vụ công tác nghiên cứu lý luận thì vấn đề tổng kết thực tiễn về đường lối đổi mới và bài học thực tiễn từ công cuộc đổi mới của Đảng cũng giúp cho người đọc nhận thức rõ hơn về thực tiễn quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta. Đó là nhận thức một cách toàn diện về hiện thực và đường lối phát triển của đất nước ta hiện nay trên tất cả các lĩnh vực của đời sống: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đến công tác đối ngoại và quốc phòng an ninh, mà nếu như chúng ta chỉ đọc, nghe thông qua từng bài viết sẽ chưa thực sự lĩnh hội được đầy đủ, bởi mỗi một bài viết đều mang đến cho chúng ta một góc nhìn riêng biệt về một lĩnh vực cụ thể trong một chỉnh thể mang tính khái quát cao. Cụ thể là:
Về kinh tế, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Mô hình kinh tế mà chúng ta xây dựng là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là một đột phá lý luận cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Theo đó, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; đảm bảo định hướng XHCN, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(3). Như vậy, về bản chất nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam khác với các nền kinh tế khác, đó là nền kinh tế gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Theo tác giả cuốn sách điều đó có nghĩa là không chờ đến khi kinh tế có sự phát triển cao mới thực hiện công bằng xã hội, càng không “hi sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Chính sách phát triển đó phù hợp với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta: phát triển nền kinh tế hài hoà với xã hội, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, vì sự phát triển con người.
Về văn hoá - xã hội, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 ngày 11/8/2021 cũng là nội dung bài viết thứ 5 của đồng chí Tổng Bí thư trong cuốn sách, Đảng ta xác định “nền văn hoá mà Việt Nam đang xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn”(4); xã hội chủ nghĩa theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đó là xã hội có nền kinh tế hoạt động theo pháp luật, bình đẳng trước pháp luật, thực hiện chế độ phân phối công bằng và tạo động lực cho phát triển(5). Đó là xã hội hướng tới sự tiến bộ, nhân văn dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội mà trong đó, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích.
Về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Đảng ta thống nhất quan điểm chỉ đạo “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn để phát triển đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng... Khai thác, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”(6). Từ quan điểm chỉ đạo này, các nội dung về đường lối, định hướng, nhiệm vụ của an ninh quốc phòng, an ninh đối ngoại cụ thể được Đảng ta quán triệt sâu sắc trong bài phát biểu tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, ngày 28/9/2020 cũng là bài viết thứ 28 trong cuốn sách của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Quân đội nhân dân, Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, được đặt dưới sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng. Do vậy, “Quân đội phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, gắn bó máu thịt với nhân dân”(7). Về vấn đề an ninh cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm xây dựng “lực lượng công an thật sự trong sạch, vững mạnh, gần dân, sâu sát cơ sở”; chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng, các bộ, ngành, địa phương và Quân đội nhân dân để “giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống, tuyệt đối không chủ quan, lơ là; không để bị động, bất ngờ(8). Về lĩnh vực đối ngoại, tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng, thay mặt Đảng và Nhà nước, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã khái quát về nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại và mang đậm bản sắc dân tộc, trường phái Ngoại giao “cây tre Việt Nam” với tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến” kiên định về nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về phương pháp, sách lược”(9).
Đối với hoạt động của Nhà nước: Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đại biểu cao nhất của nhân dân, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đất nước trong giai đoạn mới, Quốc hội cần “tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động”, thực hiện thật tốt các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, kịp thời thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nguyện vọng của nhân dân”(10) như: tạo lập khung khổ pháp lý cho các hoạt động của đất nước, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, “đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát”; “Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế”. Chính phủ cần tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động đặc biệt là công tác xây dựng bộ máy tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ”; “đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả phân cấp phân quyền, phân công phối hợp”; “xiết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính; kiên quyết, kiên trì “đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực”; “đóng góp to lớn hơn nữa vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
3. Bài học giáo dục về nhận thức trách nhiệm
Có thể nói cuốn sách "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam" là một công trình lý luận không dễ đọc. Bởi vậy, điều này đòi độc giả của nó, phải có sự nghiêm cẩn, có sự nghiền ngẫm và tầm tư duy nhất định, cộng với những kiến thức lý luận và thực tiễn. Song, những vấn đề lớn lao ấy của cuốn sách lại được diễn đạt với lối hành văn giản dị, cấu tứ chặt chẽ, mạch lạc, sâu sắc và dễ hiểu đã giúp tác phẩm thực sự lôi cuốn đông đảo các tầng lớp bạn đọc. Nội dung cuốn sách không chỉ thể hiện rõ tư duy nhận thức uyên bác của người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam về những vấn đề lý luận mang tầm khái quát cao, những vấn đề thực tiễn mang tính chiến lược, mà hơn nữa trong cuốn sách còn có bóng dáng của một người con yêu nước, cùng với những băn khoăn, trăn trở, đó là: “làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được CNXH ở Việt Nam?”. Chính vì lẽ đó mà giá trị xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm không chỉ dừng lại ở bài học hoàn thiện nhận thức lý luận và thực tiễn mà còn có ý nghĩa tác động sâu sắc đến ý thức của cán bộ, đảng viên về trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân và Tổ quốc, cụ thể là:
Thứ nhất, với lý luận về độc lập dân tộc, tác giả các bài viết đã cho chúng ta thấy rõ bức tranh toàn cảnh về quá trình đấu tranh cách mạng gian khổ, lâu dài và đầy hi sinh để chống lại ách đô hộ và xâm lược của thực dân, đế quốc nhằm bảo vệ nền hòa bình, độc lập của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân ta. Trên con đường giành lại chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng vì độc lập, tự do và hạnh phúc đó, Đảng và nhân dân ta đã quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. “CNXH là khát vọng của nhân dân, là sự lựa chọn đúng đắn của của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế chung của lịch sử”(11). Và giờ đây, trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta vẫn đang phải trải qua rất nhiều khó khăn và thách thức, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải nắm vững tri thức khoa học về lý luận chính trị và hiểu biết thực tiễn để xứng đáng với vai trò và trách nhiệm mà Đảng và nhân dân đã giao phó. Đây chính là lời hiệu triệu động viên thúc dục cán bộ, đảng viên phải có những hành động thiết thực hơn với vai trò trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Thứ hai, trong các bài viết, bài nói của mình, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức đảng thuộc mọi lĩnh vực đối với Tổ quốc, nhân dân trong công cuộc xây dựng XHCN ở Việt Nam. Trong đó, đặc biệt là công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, điển hình là công cuộc chống tham nhũng, tiêu cực. Với lý lẽ “kỷ luật một người để cứu muôn người” của người đứng đầu Đảng và Nhà nước đã trở thành động lực thúc đẩy các cán bộ, đảng viên phải thực hiện tốt hơn nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Trước thực tiễn xuất hiện một bộ phận cán bộ, đảng viên tha hóa, biến chất, sa vào cạm bẫy tham nhũng làm giảm sút sức mạnh của nhiều tổ chức đảng, gây bức xúc cho người dân thì đây cũng là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh cho những ai đã, đang và sẽ trở thành những "thanh củi” trong cuộc chiến chống tham nhũng. Đồng thời, tạo cơ sở động lực và niềm tin cho những cán bộ, đảng viên thực hiện vai trò, trách nhiệm là người tìm bắt “con sâu làm rầu nồi canh” này.
Thứ ba, từ những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích thấu đáo, luận giải cặn kẽ trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Những phân tích về bản chất của chủ nghĩa tư bản với những giá trị đã đạt được và những hạn chế của nó trong mối quan hệ khách quan, vận động và phát triển không ngừng giúp chúng ta thêm vững vàng hơn nữa, kiên định hơn con đường đi lên CNXH, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Bên cạnh đó, những kiến thức về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và những bản chất tốt đẹp của nó giúp chúng ta nhận thức rõ hơn, phân biệt rõ hơn thuyết âm mưu của các thế lực thù địch, phản động, từ đó có thêm những luận chứng để làm căn cứ, cơ sở đấu tranh, phản bác lại những liệu điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đang triệt để sử dụng âm mưu “diễn biến hòa bình” để chống phá Đảng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Sau cùng, khi gấp cuốn sách lại, hơn bao giờ hết, chúng ta không chỉ cảm thấy khâm phục, tự hào bởi sự đồ sộ của những kiến thức đã được lĩnh hội, mà còn xúc động bởi chính hình ảnh của tác giả đã xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Ở đó, ta thấy được tấm gương sáng về người lãnh đạo mẫu mực, sống, làm việc và cống hiến đúng bản chất cán bộ của Cụ Hồ. Thiết nghĩ, cuốn sách thực sự sẽ là cẩm nang chỉ hướng cho những cán bộ, đảng viên, những công dân yêu nước phát huy trí tuệ, năng lực của bản thân một cách có hiệu quả trong mọi lĩnh vực công tác, quyết tâm thực hiện thắng lợi con đường mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
____________________________
(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11) Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. CTQG Sự thật, Hà Nội, tr.22, 24, 91, 92 - 93, 92, 49, 443, 458, 192 - 193, 70 - 80, 23.
Bình luận