Những giá trị cốt lõi, bền vững và tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội mà nhân loại hướng tới
1. Khi đề cập đến lịch sử nhân loại, C.Mác đã lưu ý rằng, đó là quá trình đối tượng hóa thế giới bên ngoài cho phù hợp những nhu cầu rất đa dạng và ngày càng cao của con người. Lý do bởi thế giới bên ngoài không thỏa mãn các nhu cầu và để tồn tại, phát triển, con người phải dấn thân vào cải tạo thế giới theo kích cỡ của chính nó. Trong quá trình đó, những ước mơ, khát vọng của con người về một tương lai tốt đẹp hình thành và từng bước được hiện thực hóa.
Buổi bình minh của lịch sử, ước mơ, khát vọng thể hiện dưới hình thức các huyền thoại, truyền thuyết. Sau đó là trong các lý thuyết tôn giáo và cuối cùng trong các học thuyết xã hội. Các lý thuyết, học thuyết đó không chỉ phản ánh một cách nhìn về vũ trụ, về nhân sinh mà còn thể hiện những nỗ lực to lớn nhằm đưa ra những dự báo, những phác thảo cho một tương lai tốt đẹp hơn của nhân loại.
Ky tô giáo, nhất là Ky tô giáo sơ kỳ đã phác họa một cõi thiên đường mà ở đó con người ngập tràn trong hạnh phúc, không có khổ đau, bất hạnh, không có cái chết... Phật giáo cũng xây dựng hình ảnh tuyệt đẹp về cõi niết bàn, nơi con người không còn vướng bận vào “tham, sân, si”- căn nguyên của những khổ đau, phiền lụy của kiếp người... Các nhà tư tưởng xã hội ở mọi thời đại cũng cố gắng đưa ra những dự báo về tương lai. Thời cổ đại, ở cả phương Đông và phương Tây, trong quan niệm của Khổng Tử, Lão Tử hay như Platon, Aristote đều cho rằng, tương lai của nhân loại là tốt đẹp. Thời cận đại, xã hội tương lai được hình dung cụ thể hơn. Trong quan niệm của các nhà tư tưởng tiến bộ, tương lai của nhân loại là một xã hội không có áp bức, bất công, quan hệ giữa người và người là bình đẳng, trẻ em được học hành, người già được chăm sóc... và họ gọi đó là CNXH.
Với trí tuệ đặc biệt uyên bác được thôi thúc bởi những giá trị cao cả của chủ nghĩa nhân đạo cùng những trải nghiệm thực tiễn cá nhân phong phú, những người sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa những tinh hoa tư tưởng của nhân loại để sáng tạo nên một học thuyết khoa học vĩ đại. Học thuyết đó không chỉ vạch rõ bản chất của lịch sử, mà còn đưa ra những dự báo khoa học cho tương lai của loài người. Theo đó, dù khó khăn, phức tạp, dù quanh co và đôi khi là những thụt lùi, song chủ nghĩa xã hội là tương lai của nhân loại.
Theo luận chứng của những người sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, CNXH với tư cách là một nấc thang phát triển kế tiếp chủ nghĩa tư bản phải là một chế độ xã hội thật sự tốt đẹp cho con người. Chế độ đó là sự khắc phục một cách hiện thực những khuyết tật cố hữu của chủ nghĩa tư bản và có khả năng thỏa mãn những ước mơ, khát vọng chân chính của nhân loại.
Về mục tiêu, CNXH hướng đến một hiện thực không còn ách áp bức, bóc lột giai cấp, dân tộc; con người được giải phóng, được phát triển tự do, toàn diện. Đó là sự tiếp tục những nỗ lực lớn lao của nhân loại mà các chế độ xã hội trước vì nhiều lý do đã không thể giải quyết. Ngay chủ nghĩa tư bản, mặc dù đã đạt được những tiến bộ rất to lớn song rốt cục nó vẫn không thể khắc phục nạn người áp bức, bóc lột người, nạn dân tộc này áp bức dân tộc khác. Thậm chí còn làm trầm trọng thêm những vấn nạn đó. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, dù có vẻ hào quang song chỉ một thiểu số người giàu có là tự do còn đại đa số vẫn là người làm thuê, bị nô dịch và bần cùng hóa. Những kết quả đó không thuần túy là quá trình “phát lộ bản chất người” mà ngược lại, là quá trình tha hóa bản chất con người như C.Mác quan niệm mà thực chất là quá trình cưỡng bức, biến con người trở thành một sinh vật có khả năng sinh lợi cho ông chủ.
Vượt qua giới hạn của những ước mơ, khát vọng thuần túy của nhân loại hay những dự cảm tuy đẹp đẽ nhưng thiếu cơ sở hiện thực của những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng, những người sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận chứng một cách có căn cứ rằng, trên cơ sở liên hợp của những người lao động, dưới sự lãnh đạo của chính đảng cách mạng chân chính, sau khi giành được quyền lực chính trị, giai cấp công nhân và nhân dân lao động sẽ kiến tạo một chế độ xã hội có khả năng tiếp tục thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, làm cơ sở để thõa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, tạo nền tảng hiện thực cho công cuộc giải phóng con người một cách triệt để. Trong quá trình đó, dân chủ thật sự của người lao động được thực thi và phát huy thông qua nhiều hình thức, nhiều công cụ mà nhà nước XHCN là công cụ hùng mạnh nhất. Nhà nước đó không phải là nhà nước của một thiểu số người bóc lột mà thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Bằng sức mạnh vĩ đại của nhân dân, một nền văn hóa mới mang tính nhân dân sâu sắc từng bước được xây dựng và trở thành nền tảng, thành động lực cho phát triển. Các dân tộc trong mỗi quốc gia và giữa các quốc gia cùng chung sống trong một môi trường hòa bình, hữu nghị và hợp tác để phát triển vì lợi ích chung. Do đó, nạn áp bức dân tộc vĩnh viễn bị xóa bỏ.
Vì lẽ đó, có thể nói, CNXH là hiện thân một cách sinh động nhất những giá trị tốt đẹp mà nhân loại khao khát hướng tới.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công cuộc xây dựng CNXH là rất khó khăn, lâu dài và không có một hình mẫu duy nhất cho mọi quốc gia trên thế giới. Vì vậy, câu hỏi, CNXH là gì, biện pháp, con đường nào để xây dựng thành công CNXH vẫn luôn được các chính đảng công nhân đặt ra và giải đáp.
2. Là người đứng đầu Đảng ta, trước yêu cầu của thực tiễn, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dày công nghiên cứu và có những kiến giải sâu sắc về các vấn đề trên. Ý kiến của Tổng Bí thư bước đầu được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tập hợp trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” gồm 29 bài viết rất chọn lọc, với văn phong dung dị nhưng ẩn chứa một tầm tư duy sâu sắc và một niềm tin sắt đá vào CNXH cũng như tiền đồ tươi đẹp của dân tộc Việt Nam. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập đến những vấn đề trọng yếu nhất của CNXH ở Việt Nam, trong đó có những giá trị cốt lõi, bền vững và tốt đẹp của CNXH mà nhân loại hướng tới.
Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và qua trải nghiệm cá nhân, Tổng Bí thư đã cho thấy, trong điều kiện Việt Nam, để mang lại hạnh phúc thật sự cho nhân dân, cần phải kiên trì, kiên định các giá trị cốt lõi, bền vững và tốt đẹp của CNXH mà nhân loại hướng đến. Các giá trị đó phải được nhận thức và vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện Việt Nam và bối cảnh mới của thời đại.
CNXH ở Việt Nam không thể không hướng đến mục tiêu vì sự phát triển bền vững cho con người, vì con người, tạo điều kiện để con người có cơ hội bộc lộ nhân tính và hoàn thiện các phẩm chất, năng lực của mình với tư cách là chủ thể chân chính và duy nhất của lịch sử. CNXH phải là chế độ xã hội vì con người mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiên liệu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trên 170 năm trước. Theo đó, “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(1). Mục tiêu đó là nhất quán và xuyên thấm toàn bộ hoạt động của người cộng sản trong hành trình lâu dài và gian khổ của công cuộc xây dựng CNXH.
Trong tác phẩm của mình, Tổng Bí thư đã trả lời rất thuyết phục một câu hỏi đặc biệt lớn của thời đại chúng ta, nhất là sau sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các quốc gia khu vực Đông Âu, đó là “lịch sử cáo chung”, chủ nghĩa tư bản là nấc thang cuối cùng hay CNXH là tương lai của nhân loại và tại sao Việt Nam lựa chọn con đường XHCN?
Với thái độ khách quan, khoa học, Tổng Bí thư nhận định: “Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước”(2).
Nhận định trên đây về chủ nghĩa tư bản là khách quan, phù hợp với các kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, song rất khái quát và chặt chẽ. Theo đó, những thành tựu của chủ nghĩa tư bản, nhất là những điều chỉnh theo hướng quan tâm hơn trong giải quyết các chế độ phúc lợi xã hội không chỉ trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao mà còn là kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và người lao động. Đây là một lưu ý đặc biệt cần thiết bởi, trong bối cảnh CNXH trên thế giới trong giai đoạn khó khăn đã có không ít người dao động về niềm tin cộng sản, dẫn đến lý tưởng hóa các giá trị tư sản, ca ngợi chủ nghĩa tư bản một chiều.
Những người đó không thấy rằng, sự hào quang của chủ nghĩa tư bản không phải cho tất cả mọi người, nhất là người lao động và hào quang ấy có được là nhờ những nỗ lực to lớn của người lao động trong cuộc đấu tranh vì công lý, vì tiến bộ xã hội. Hào quang ấy đã phải trả giá bằng sự bần cùng hóa với tốc độ ngày càng lớn của người lao động, hình thành thế giới đối nghịch giữa những người nắm giữ tài sản thế giới và những người lao động; giữa người giàu và người nghèo (1% và 99%); sự cạn kiệt tài nguyên và hệ sinh quyển sống; sự thừa thãi và lãng phí ở cấp độ toàn cầu; sự xung đột, chiến tranh và nạn khủng bố quốc tế; sự chia rẽ sâu sắc giữa các dân tộc, sắc dân; sự chà đạp nhân phẩm hay bản sắc mà học giả tư sản Francis Fuykyama trong tác phẩm nổi tiếng “Bản sắc - sự thừa nhận và chính trị phẫn nộ” đã cảnh báo và vô vàn những tật bệnh khác.
Vì lẽ đó, CNXH là sự lựa chọn tự nhiên bởi nó phù hợp với khát vọng chân chính của nhân loại. Đó là chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị được xây dựng trên những giá trị văn hóa của nhân loại và được rọi sáng bởi các giá trị văn hóa có tính khai sáng mạnh mẽ. Cũng vì thế, Tổng Bí thư khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh, bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm”(3).
Để thực hiện mục tiêu cao cả của CNXH là tất cả vì con người, cho con người, đồng thời bác bỏ luận điệu CNXH là “sự chia đều sự nghèo khổ cho mọi người”, những người sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhất quán rằng, những giá trị cao đẹp của CNXH chỉ có thể từng bước được hiện thực hóa khi và chỉ khi đạt được sự thăng tiến của lực lượng sản xuất xã hội bởi đó là cơ sở, nền tảng, cốt vật chất để thõa mãn các nhu cầu của con người, cho sự tồn tại cũng như quá trình tiến bộ hóa, nhân đạo hóa các quan hệ xã hội và sự phát triển của tư tưởng và giá trị xã hội. Trong điều kiện Việt Nam, Đảng ta khẳng định thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Điều Tổng Bí thư đặc biệt lưu ý là, lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN “là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 thực hiện đường lối đổi mới”(4)... “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh”(5). Theo đó, giữa kinh tế không tách rời mà gắn bó chặt chẽ với xã hội, “tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”(6).
Điều đó cho thấy, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ góp phần năng động hóa các chủ thể xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh mà còn có thể khắc phục những khuyết tật của thị trường, bảo đảm sự phát triển bền vững. Thể chế kinh tế đó là sự kết hợp hữu cơ giữa hai yếu tố thị trường và định hướng XHCN, thể hiện bản chất nhân văn, nhân đạo của CNXH mà nhân dân ta xây dựng và rõ ràng xa lạ với các luận điệu của các thế lực cơ hội, phản động khi cho rằng, đó thuần túy là sự gán ghép có tính cơ học, không thể ăn nhập.
Là một chỉnh thể hoàn chỉnh bao gồm nhiều giá trị cốt lõi, bền vững và tốt đẹp, CNXH ở Việt Nam còn được Tổng Bí thư đề cập đến ở phương diện chính trị. Đó là một chế độ chính trị tiến bộ, mang bản chất dân chủ thật sự, mọi quyền lực công đều thuộc về nhân dân và phục vụ nhân dân. Nhà nước với tư cách là một tổ chức quyền lực đặc biệt không còn là công cụ để cai trị, nô dịch nhân dân mà trở thành công cụ hùng mạnh để hiện thực hóa ước mơ, khát vọng tốt đẹp của con người.
Chúng ta thấy, trong lịch sử nhân loại, đã từng tồn tại nhiểu kiểu nhà nước. Các nhà nước dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, kể cả nhà nước tư bản chủ nghĩa, suy cho cùng cũng chỉ là công cụ bảo vệ trước hết cho lợi ích của giai cấp hữu sản thống trị và bảo đảm dân chủ cho thiểu số bóc lột. Theo Tổng Bí thư, “Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ”(7). Do đó, “chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”(8).
Là một chế độ xã hội tốt đẹp, CNXH không chỉ đưa lại sự giàu có về vật chất mà suy cho cùng phải tạo ra môi trường lành mạnh cho sự phát triển, nhất là của chính con người - chủ thể chân chính của lịch sử. Vì vậy, nó phải kiến tạo một môi trường, một hệ sinh thái tinh thần bảo đảm cho sự phát triển tự do, toàn diện của con người. Đó là một hệ sinh thái nuôi dưỡng lòng nhân ái, sự hòa mục, đồng thuận giữa con người với con người và giữa các cộng đồng, dân tộc để “bản chất loài”, “thuộc tính loài” như quan niệm của C.Mác được phát lộ. Do đó, sự phát triển bền vững phải là sự phát triển dựa trên nền tảng văn hóa, vì mục tiêu văn hóa và động lực cũng là văn hóa.
Tổng Bí thư cho rằng, “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(9). Theo ý nghĩa đó, như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết trong tác phẩm Văn hóa và đổi mới, CNXH là một sự nghiệp văn hóa, “công cuộc đổi mới là một công trình văn hóa”.
Trước bối cảnh mới của thời đại, nhất là hiểm họa môi trường tự nhiên bị hủy hoại, đe dọa sự sống của nhân loại, một vấn đề hết sức nóng bỏng không thể không đề cập đến như là một trong những giá trị của CNXH, đó là làm sao để sự phát triển bền vững không chỉ về kinh tế, xã hội mà còn cho cả môi trường. Nhiệm vụ đó như Ph.Ăngghen đã từng lưu ý rằng, khi con người tước đoạt tự nhiên thì tự nhiên sẽ trả thù con người. Do đó, “Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường”(10).
Để những giá trị cốt lõi, bền vững và tốt đẹp của CNXH ở Việt Nam trở thành hiện thực, Tổng Bí thư cho rằng, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được quan tâm đặc biệt. Theo đó cần “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”(11).
3. Thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước 35 năm qua cho thấy, trước những biến động to lớn của thời cuộc sau sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và các quốc gia khu vực Đông Âu, Đảng ta bằng bản lĩnh và trí tuệ đã phân tích chính xác cục diện thế giới và xu hướng vận động của lịch sử để đưa ra các quyết sách chính trị đúng đắn. Theo đó, Đảng khẳng định, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và nhân dân ta; độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu mà cách mạng Việt Nam kiên trì thực hiện. Nhờ đó, chế độ chính trị được giữ vững, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện... “Chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(12). Lộ trình cách mạng vừa qua càng khẳng định rằng, những giá trị cốt lõi, bền vững và tốt đẹp của CNXH mà nhân loại hướng tới càng ngày càng được hiện thực hóa trên mảnh đất Việt Nam và được phản ánh rất sâu sắc qua cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Tuy dung lượng không thật lớn song tác phẩm của Tổng Bí thư chứa đựng nhiều tư tưởng lớn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Có thể xem đó là sự tổng kết ở cấp độ lý luận về công cuộc xây dựng CNXH trong thời kỳ đổi mới với một hệ thống quan điểm cho dù cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung song bước đầu đã được định hình. Trong hệ thống quan điểm đó, độc lập dân tộc và CNXH; dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh được xác định dứt khoát là mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta kiên trì, kiên định thực hiện và trở thành những định hướng chỉ đạo nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân ta nhằm khơi dậy khát vọng phát triển để Việt Nam trở thành hùng cường, nhân dân tự do, hạnh phúc. Đó cũng là sự bác bỏ có căn cứ các luận điệu của các thế lực phản động, các phần tử cơ hội chính trị khi mưu toan ngăn cản công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, phủ nhận con đường XHCN mà chúng ta đã lựa chọn./.
______________________________________________________
(1) C.Mác và Ph.Ănghen (2002), Toàn tập, T.4, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 628.
(2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11) Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.18-19, 21, 25, 25-26, , 27, 20, 21-22, 27, 21, 29.
(12) ĐCSVN (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.25.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 10.5.2022
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận