Phát huy mục đích, ý nghĩa của công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng các cấp
1. Tình hình luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng thời gian qua
Luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng là một khâu trong công tác cán bộ; là việc cấp ủy có thẩm quyền ban hành các quyết định về việc phân công, chỉ định, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra, giám sát và cán bộ lãnh đạo ủy ban kiểm tra các cấp sang công tác ở các ngành, các cấp khác; phân công, chỉ định, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ giữ chức danh lãnh đạo, quản lý tại nơi khác trong ngành kiểm tra đảng từ Trung ương đến cấp huyện trong một thời hạn nhất định để tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra theo yêu cầu, nhiệm vụ hoặc chức danh quy hoạch.
Để tạo sự đồng bộ, thống nhất trong tổ chức thực hiện luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng, ngày 09/3/2010, Ban Bí thư đã ban hành Thông báo kết luận số 312-TB/TW về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra, giám sát và luân chuyển cán bộ lãnh đạo ủy ban kiểm tra các cấp đến công tác ở các ngành, các cấp. Gần đây, Đảng đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Quy định số 110-QĐ/TW ngày 06/7/2023 của Ban Bí thư về luân chuyển cán bộ trong ngành kiểm tra đảng. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và cấp ủy các cấp, công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Theo báo cáo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, từ năm 2010 đến nay, tổng số cán bộ luân chuyển đi trong toàn ngành kiểm tra đảng là 1.467 cán bộ, trong đó: Ủy ban Kiểm tra Trung ương là 13 cán bộ; cấp tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương là 165 cán bộ; cấp huyện ủy, quận ủy, đảng ủy trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy là 132 cán bộ. Trong số cán bộ luân chuyển đi, có ban thường vụ cán bộ trở lại ngành sau luân chuyển (đạt 15,13%), số cán bộ trở lại ngành được bố trí chức danh cao hơn là 139 cán bộ (đạt 62,61% so với số cán bộ trở lại ngành) (1).
Tổng số luân chuyển đến trong toàn ngành kiểm tra đảng là 1.783 cán bộ, trong đó: Ủy ban Kiểm tra Trung ương là 20 cán bộ; cấp tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương là 171 cán bộ; cấp huyện ủy, quận ủy, đảng ủy trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy là 1.612 cán bộ (2).
Số lượng cán bộ luân chuyển trong nội bộ ngành kiểm tra đảng là 22 cán bộ, trong đó có 01 phó chủ nhiệm, 06 ủy viên ủy ban kiểm tra cấp tỉnh luân chuyển giữ chức chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp huyện; 12 chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp huyện luân chuyển giữ chức phó chủ nhiệm (4 cán bộ) và ủy viên (8 cán bộ) ủy ban kiểm tra cấp tỉnh; 01 đồng chí chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp huyện luân chuyển sang chủ nhiệm ủy ban kiểm tra huyện khác; 02 phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp huyện luân chuyển giữ chức ủy viên ủy ban kiểm tra cấp tỉnh (3).
Qua thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng, các cán bộ luân chuyển được trải nghiệm thực tế, tích lũy được nhiều kinh nghiệm từ các ngành, lĩnh vực, địa phương; nhiều cán bộ của các ngành, lĩnh vực, địa phương khác được luân chuyển về ngành kiểm tra đảng, tăng cường cán bộ lãnh đạo ủy ban kiểm tra có trình độ chuyên sâu ở nhiều ngành, lĩnh vực. Hầu hết cán bộ qua luân chuyển đều có bước trưởng thành, có hiểu biết và phương pháp công tác toàn diện, sát thực tế hơn. Các cán bộ luân chuyển nội bộ ngành kiểm tra đảng, tuy số lượng chưa nhiều, nhưng đã tạo hiệu quả rất tích cực, góp phần tăng cường đội ngũ cán bộ cho các tổ chức đảng còn thiếu cán bộ kiểm tra, dần tạo sự đồng bộ, toàn diện về chất lượng của đội ngũ cán bộ trong toàn ngành.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng còn có những hạn chế. Việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý mới chỉ cơ bản đáp ứng được yêu cầu cấp bách, trước mắt, chưa có lộ trình lâu dài; một số cấp ủy cơ sở chưa tạo được sự thống nhất thực hiện việc cụ thể hóa nội dung theo tinh thần Thông báo số 312-TB/TW của Ban Bí thư; hệ thống văn bản quy định chưa đầy đủ, một số nội dung chưa được hướng dẫn cụ thể như chế độ chính sách đối với cán bộ luân chuyển; tiêu chí đánh giá, nhận xét cán bộ luân chuyển; việc giữ mối liên hệ giữa cán bộ luân chuyển và cơ quan có cán bộ luân chuyển đi; vai trò tham mưu, đề xuất của các cơ quan tham mưu của cấp ủy về công tác cán bộ và một số ủy ban kiểm tra, cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp còn hạn chế; công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá những ưu điểm, hạn chế chưa thường xuyên, dẫn đến một số khó khăn, vướng mắc không được điều chỉnh, bổ sung kịp thời.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, khuyết điểm nêu trên, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là do một số cấp ủy chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò, mục đích, tác dụng của việc luân chuyển cán bộ, còn có sự nhầm lẫn giữa luân chuyển để đào tạo, bồi dưỡng và điều động cán bộ, dẫn đến chưa quan tâm đúng mức đến công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng.
2. Mục đích, ý nghĩa của công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng
Để nâng cao hiệu quả công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng, trong thời gian tới, cần khẳng định mục đích, ý nghĩa quan trọng của công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng. Hiểu đúng, đủ mục đích, ý nghĩa quan trọng của công tác này sẽ góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, từ đó nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra đảng nói chung, chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng nói riêng. Mục đích, ý nghĩa đó được thực hiện trên một số nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, tạo thuận lợi cho cán bộ trong và ngoài ngành kiểm tra đảng phát triển toàn diện cả về trình độ lý luận chính trị và năng lực tổ chức thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngành kiểm tra đảng trước mắt và lâu dài
Công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng của cấp ủy các cấp chủ yếu được tiến hành đối với cán bộ ngành kiểm tra đảng, song thực tế cho thấy, nhiều trường hợp cán bộ làm việc ở các ngành, lĩnh vực khác ngoài ngành kiểm tra đảng được quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý và ủy viên ủy ban kiểm tra đã qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong quy hoạch các chức danh này. Cần thực hiện công việc tiếp theo là luân chuyển cán bộ trong quy hoạch.
Công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng góp phần quan trọng bổ sung kiến thức toàn diện cho cán bộ, bảo đảm cho các bộ có khả năng hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao sau khi hoàn thành việc luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng. Bên cạnh đó, công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng còn có vai trò to lớn đối với việc rèn luyện, phát triển phong cách, lề lối làm việc của cán bộ kiểm tra đảng, đặc biệt là bản lĩnh chính trị, năng lực xử lý tình huống công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, đạo đức, lối sống của cán bộ kiểm tra đảng.
Hai là, góp phần khắc phục tình trạng hẫng hụt cán bộ kiểm tra đảng và khép kín, cục bộ trong công tác cán bộ ở một số đơn vị, cơ quan trong ngành kiểm tra đảng của cấp ủy các cấp
Nhìn chung, đào tạo, bồi dưỡng để có được những cán bộ trung thành tuyết đối với Đảng, chế độ và nhân dân, có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về lý luận và năng lực tổ chức thực tiễn, hoạt động đạt hiệu quả cao, có uy cao trong cán bộ, đảng viên và nhân dân là công việc rất khó. Trong đó, khó hơn là đào tạo, bồi dưỡng để có được những cán bộ kiểm tra đảng như thế. Vì vậy, trên thực tế, cùng với khó khăn này và nhiều lý do khác, ở không ít ủy ban kiểm tra và cơ quan ủy ban kiểm tra có tình trạng hụt hẫng cán bộ kiểm tra đảng, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, ủy viên ủy ban kiểm tra các cấp. Trong khi đó, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của cấp ủy các cấp và của Đảng ngày càng nặng nề, phức tạp, nhất là trong điều kiện hiện nay, đòi hỏi rất cấp thiết nâng cao chất lượng. Điều này, lại phụ thuộc và được quyết định bởi chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra đảng. Đội ngũ này phải đủ số lượng, có cơ cấu hợp lý, từng cán bộ có chất lượng cao, không xảy ra tình trạng hụt hẫng, phải có sự kế thừa, phát triển liên tục, vững vàng. Công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng của cấp ủy các cấp và của Đảng góp phần rất quan trọng vào công việc này.
Công tác luân chuyển cán bộ góp phần tạo nguồn cán bộ có chất lượng cho ủy ban kiểm tra và cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp. Bên cạnh đó, công tác luân chuyển cán bộ cán bộ kiểm tra đảng của cấp ủy các cấp còn nhằm điều chỉnh việc bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý của ủy ban kiểm tra, cơ quan ủy ban kiểm tra của cấp ủy cùng cấp và cấp dưới, nhất là cấp dưới trực tiếp của cấp ủy hợp lý hơn; tăng cường cán bộ có chất lượng cho các ủy ban kiểm tra, cơ quan ủy ban kiểm tra trong đảng bộ gặp khó khăn về cán bộ, chất lượng cán bộ còn hạn chế, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra đảng của các tổ chức, bảo đảm thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, cơ quan.
Ba là, góp phần thay thế những cán bộ năng lực hạn chế, khó hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao, uy tín có biểu hiện giảm sút
Cùng với công tác điều động cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các đơn vị, cơ quan thuộc ngành kiểm tra đảng, công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng của cấp ủy các cấp góp phần thay thế những cán bộ năng lực hạn chế, khó hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao, uy tín có biểu hiện giảm sút.
Trong công tác cán bộ nói chung cán bộ kiểm tra đảng nói riêng việc thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý như trên là việc làm rất tế nhị, nhạy cảm. Ở khá nhiều nơi vì lý do này vẫn cứ để những cán bộ đó tại vị, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hiệu quả và kết quả hoạt động của đơn vị cơ quan, cán bộ trẻ, có trình độ, năng lực, uy tín không có điều kiện thuận lợi hoạt động, cống hiến. Việc điều động những cán bộ này đảm nhận công việc khác hoặc đảm nhận cương vị thấp hơn vị trí công tác hiện tại thường dẫn đến những phức tạp nhất định, thậm chí rất phức tạp trong nội bộ. Nhờ công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng, kết hợp với việc điều động cán bộ công việc nêu trên thuận lợi hơn, hạn chế được khá nhiều phức tạp có thể xảy ra trong các đơn vị, cơ quan ngành kiểm tra đảng và trong đội ngũ cán bộ kiểm tra đảng.
Bốn là, góp phần bổ sung nguồn lực, tố chất mới cho ủy ban kiểm tra và cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng
Cán bộ kiểm tra đảng được luân chuyển là những cán bộ hội đủ các tiêu chuẩn cần thiết của cán bộ được luân chuyển, nhất là những cán bộ trong quy hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý ủy ban kiểm tra, cơ quan ủy ban kiểm tra và ủy viên ủy ban kiểm tra các cấp. Họ đã có quá trình rèn luyện và trưởng thành, được đào tạo cơ bản. Những cán bộ này, được luân chuyển đến đơn vị, cơ quan luân chuyển sẽ bổ sung cho đội ngũ cán bộ kiểm tra đảng ở nơi đó, nguồn lực và tố chất mới góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng ở nơi cán bộ luân chuyển đến.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của cấp ủy các cấp và của Đảng liên quan mật thiết đến tất cả các hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và của Đảng. Những cán bộ kiểm tra đảng đã có thời gian nhất định làm việc trong các đơn vị, cơ quan của ngành kiểm tra đảng, chuyển sang làm việc ở các ngành, lĩnh vực khác, thường hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao và trưởng thành. Điều này, đã được thực tiễn chứng minh. Việc luân chuyển cán bộ kiểm tra sang làm việc ở ngành, lĩnh vực khác nằm trong tổng thể công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý của cấp ủy các cấp và của Đảng. Với nghĩa đó, công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng.
3. Một số yêu cầu để phát huy mục đích, ý nghĩa của công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng
Để phát huy mục đích, ý nghĩa của công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:
Một là, luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng phải tiến hành vừa mạnh mẽ, vừa thận trọng, giải quyết tốt các mối quan hệ giữa luân chuyển cán bộ với mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra đảng, với chuẩn bị đội ngũ kế cận và đoàn kết trong đội ngũ cán bộ nơi cán bộ luân chuyển đến.
Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra đảng là: xây dựng đội ngũ cán bộ này đủ số lượng cán bộ kiểm tra đảng của các cấp ủy, tổ chức đảng từ cấp huyện và tương đương trở lên; có cơ cấu hợp (cơ cấu độ tuổi, giới tính, ngành chuyên môn, lĩnh vực đào tạo…). Đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực công tác chuyên sâu, uy tín ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, đồng thời bảo đảm mục đích bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, chuẩn bị đội ngũ kế cận. Luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng phải tiến hành vừa mạnh mẽ, vừa thận trọng, giải quyết tốt mối quan hệ luân chuyển cán bộ với thực hiện mục tiêu này, đặc biệt coi trọng bảo đảm đoàn kết trong đội ngũ cán bộ nơi cán bộ luân chuyển đến và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng nơi đó.
Tiến hành mạnh mẽ trong luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng không có nghĩa là không có căn cứ khoa học và thực tiễn; làm bừa, làm ẩu, có biểu hiện của “bệnh thành tích”. Tiến hành thận trọng trong luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng, không có nghĩa là quá thận trọng, sợ sai lầm, khuyết điểm, dẫn đến trì trệ. Đối với các chức danh phải qua bầu cử phải thực hiện theo đúng quy định của Đảng.
Hai là, việc luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng cần tính đến những đặc điểm về công việc, vị trí chức danh mà cán bộ được quy hoạch có thể được bổ nhiệm trong tương lai, tạo điều kiện cho cán bộ thích ứng với thực tiễn, phát huy được năng lực sở trường và bổ khuyết những kiến thức, kỹ năng mới.
Việc luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra và xây dựng Đảng. Tuy nhiên, quá trình này cần phải được thực hiện một cách khoa học, tính đến những đặc điểm công việc, vị trí chức danh mà cán bộ có thể đảm nhận trong tương lai. Việc lựa chọn vị trí công tác và chức danh luân chuyển phải phù hợp với năng lực, sở trường, cũng như yêu cầu nhiệm vụ của từng cán bộ. Điều này sẽ tạo điều kiện cho cán bộ phát huy tối đa năng lực, đồng thời giúp họ bổ sung và nâng cao những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc sau này. Khi đó, cán bộ không chỉ cảm thấy tự tin hơn trong công việc mà còn dễ dàng thích ứng với những thay đổi trong môi trường làm việc mới.
Ngược lại, nếu việc lựa chọn địa bàn, chức danh luân chuyển không hợp lý, không đáp ứng được yêu cầu đào tạo, sẽ dễ dẫn đến tình trạng cán bộ cảm thấy bỡ ngỡ, không phát huy được khả năng, hoặc không thể tiếp cận với những kiến thức, kỹ năng mà họ cần học hỏi. Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả công việc mà còn ảnh hưởng đến niềm tin của cán bộ đối với tổ chức và sự phối hợp giữa nơi cử cán bộ và nơi tiếp nhận cán bộ. Do vậy, việc lựa chọn đúng địa bàn và chức danh luân chuyển là yếu tố quyết định đến thành công của quá trình này.
Ba là, thực hiện luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng cần được chú ý để bảo đảm tạo môi trường phù hợp nhất cho cán bộ được rèn luyện, trưởng thành và phát triển một cách toàn diện
Trước khi thực hiện luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng, cần cung cấp đầy đủ thông tin về vị trí mới cho cán bộ được luân chuyển (nhiệm vụ, trách nhiệm, yêu cầu công việc, chế độ đãi ngộ); tổ chức tập huấn để giúp cán bộ làm quen với công việc mới, trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết; tạo điều kiện để cán bộ trao đổi, chia sẻ với những người đã từng luân chuyển đến vị trí tương tự. Trong quá trình luân chuyển, cần theo dõi sát sao quá trình làm việc của cán bộ, kịp thời hỗ trợ khi gặp khó khăn; tạo cơ hội cho cán bộ học hỏi, rèn luyện, phát huy năng lực bản thân. Sau khi luân chuyển, cần khuyến khích cán bộ kiểm tra được luận chuyển áp dụng kinh nghiệm thu thập được từ vị trí mới vào công việc hiện tại; tạo cơ hội để cán bộ chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm tra nói chung.
Bốn là, quá trình tiến hành luân chuyển cán bộ dù trong nội bộ ngành kiểm tra đảng nhưng cũng phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, thận trọng, mở rộng dân chủ và có bước đi thích hợp
Sự quản lý, giám sát, quan tâm, tạo điều kiện đối với cán bộ luân chuyển từ phía các cơ quan, nhất là từ nơi đi, nơi đến cần được đặc biệt chú ý. Trong thời gian cán bộ luân chuyển về địa phương, cấp ủy phải thường xuyên kiểm tra, theo dõi và giúp đỡ để cán bộ kịp thời phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, khuyết điểm, đồng thời có những tiêu chí cụ thể để đánh giá cán bộ sau khi thực hiện luân chuyển; định kỳ sơ kết, rút kinh nghiệm, từng bước đưa việc luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng, nhất là luân chuyển trong nội bộ ngành kiểm tra đảng trở thành thường xuyên, nền nếp, tạo sự chuyển biến về chất trong công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng. Luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng càng phải bảo đảm đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới, cán bộ ủy ban kiểm tra cấp trên được luân chuyển về và cán bộ ủy ban kiểm tra cấp dưới được luân chuyển lên.
Năm là, luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng phải được đặt trong mối quan hệ mật thiết với các khâu khác của công tác cán bộ kiểm tra đảng, tận dụng kết quả của các khâu đó và việc tạo thuận lợi của các khâu khác để phát triển
Luân chuyển cán bộ kiểm tra đảng chỉ có thể đạt hiệu quả khi nó được gắn kết chặt chẽ với các khâu khác trong công tác cán bộ. Các khâu này có quan hệ mật thiết với nhau, vừa làm tiền đề, vừa thúc đẩy lẫn nhau. Do đó, cần gắn luân chuyển với các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo và bố trí sử dụng cán bộ; bảo đảm hài hòa giữa luân chuyển với phát triển nguồn cán bộ tại chỗ; kết hợp có hiệu quả giữa luân chuyển với điều động cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và bảo đảm về chất lượng, phục vụ tốt công tác xây dựng Đảng, thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị./.
_________________________________________________
(1), (2), (3) Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2023), Đề án số 05-ĐA/ ủy ban kiểm tra TW ngày 14/4/2023 về luân chuyển cán bộ trong hệ thống ngành Kiểm tra Đảng, Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(1) Ban Bí thư (2010), Thông báo số 312-TB/TW ngày 09/3/2010 thông báo Kết luận của Ban Bí thư về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra, giám sát và luân chuyển cán bộ lãnh đạo ủy ban kiểm tra các cấp đến công tác ở các ngành, các cấp để đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ kiểm tra, Hà Nội.
2. Ban Bí thư (2021), Kết luận số 23-KL/TW ngày 10/12/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ kiểm tra các cấp sang công tác ở các ngành, các cấp và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Hà Nội.
3. Ban Bí thư (2023), Quy định số 110-QĐ/TW ngày 06/7/2023 của Ban Bí thư về luân chuyển cán bộ trong ngành Kiểm tra Đảng, Hà Nội.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
2
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
3
Tác động của quảng cáo sản phẩm trên mạng xã hội đến hành vi mua sắm của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
-
4
Thông điệp “Ý Đảng, Lòng Dân” trong các chương trình xây dựng Đảng trên truyền hình
-
5
[Ảnh] Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025-2030 (Phiên thứ nhất)
-
6
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Thông điệp “Ý Đảng, Lòng Dân” trong các chương trình xây dựng Đảng trên truyền hình
Là một bộ phận của báo chí cách mạng Việt Nam, truyền hình Việt Nam trong thời gian qua cũng đã tích cực phát huy vai trò “cầu nối” của mình giữa Đảng và Nhân dân, thông qua việc tích cực tuyên truyền thông điệp “Ý Đảng, Lòng dân” thông qua các chương trình truyền hình đặc biệt là các chương trình chuyên đề Xây dựng Đảng. Bài viết khảo sát, nhìn nhận lại những thành tựu và hạn chế của các chương trình truyền hình xây dựng Đảng cũng như đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, sức ảnh hưởng của thông điệp "Ý Đảng, Lòng dân". Qua đó, truyền hình sẽ trở thành công cụ mạnh mẽ, hiệu quả để củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, tạo động lực cho các phong trào xã hội và thúc đẩy tinh thần đoàn kết dân tộc.
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tên của Tổng thống Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Tổng thống Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Tổng thống Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Bình luận