Sự lãnh đạo của Đảng - nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: “Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đội tiền phong dày dạn của giai cấp công nhân Việt Nam, người đại biểu trung thành và đầy đủ những lợi ích sống còn, những nguyện vọng sâu xa và chính đáng của nhân Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam”(1).
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội muốn thắng lợi trước hết phải có Đảng lãnh đạo. Khi chưa có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo, các cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân đều bị thất bại. Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo, cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thử thách, khó khăn và hy sinh đã giành được những thắng lợi vẻ vang. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta giành thắng lợi chính là nhờ trong mọi hoàn cảnh lịch sử, Đảng luôn hoạch định được đường lối chính trị đúng đắn và xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng:
Một là, Đảng xác định đường lối chính trị đúng đắn, độc lập, sáng tạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống đất nước.
Thực tiễn cách mạng thế giới cũng như cách mạng Việt Nam đã minh chứng, nếu như chính đảng lãnh đạo sai lầm về đường lối, cách mạng không những không thành công, mà còn gây nên những tổn thất lớn đối với nhân dân, với Đảng và đối với cả dân tộc. Đường lối chính trị đúng đắn có ý nghĩa quyết định hiệu quả và chất lượng lãnh đạo của Đảng.
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là minh chứng trong lịch sử khẳng định sự đúng đắn về đường lối chính trị của Đảng Lao động Việt Nam trong tiến trình chiến tranh cách mạng. Đường lối chính trị đó đã kế tục và phát triển đường lối kháng chiến chống Pháp trong điều kiện lịch sử mới. Quyết định đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng ở hai miền trong thời kỳ (1954 - 1975) đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cơ bản trong cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chiến tranh và cách mạng; hậu phương và tiền tuyến, lao động sản xuất trong xây dựng đất nước và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại...
Chặng đường 21 năm từ năm 1954 đến năm 1975, lịch sử dân tộc Việt Nam đứng trước thách thức mới, đất nước bị chia làm hai miền, với hai chế độ chính trị khác nhau. Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng đã hoạch định đường lối cách mạng miền Nam, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (tháng 1.1959) đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam với tinh thần cơ bản là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng chính trị và vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, tiến tới khởi nghĩa vũ tranh giành chính quyền về tay nhân dân...
Nghị quyết 15 đã vạch rõ phương hướng tiến lên cho cách mạng miền Nam, tạo đà cho cuộc khởi nghĩa từng phần nổ ra ngày càng rộng lớn. Tiếp đó, Đại hội III của Đảng xác định đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng ở hai miền và vai trò, vị trí, mối quan hệ của cách mạng của mỗi miền đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước. Đây là điểm độc đáo, sáng tạo của một chính đảng cộng sản lãnh đạo cách mạng một nước bị chia cắt với hai chiến lược khác nhau và đã thành công vào Xuân năm 1975.
Với quan điểm của Đảng, kiên trì nguyên tắc và linh hoạt về sách lược để giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối và hoạt động đối ngoại trong bối cảnh tình hình thế giới rất phức tạp và đấu tranh ngoại giao với Mỹ. Từ năm 1968, Đảng chủ trương mở rộng mặt trận đấu tranh ngoại giao và cục diện “vừa đánh, vừa đàm”. Đảng thực hiện một cách nhất quán chủ trương đàm phán trực tiếp với Mỹ, giữ vững nguyên tắc và linh hoạt về sách lược, không dao động trên bàn Hội nghị. Hiệp định Pari được ký kết (27/1/1973), quân Mỹ và đồng minh của Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam đã minh chứng bản lĩnh chính trị, tinh thần độc lập, tự chủ của Đảng và nhân dân Việt Nam.
Hai là, Đảng luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không chỉ là lý tưởng, mục tiêu mà còn trở thành động lực mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam. Khát vọng độc lập cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân có ý nghĩa to lớn trong việc tập hợp, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp và thành phần trong dân tộc, tạo nên lực lượng cách mạng rộng lớn và sức mạnh to lớn. Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội tốt đẹp của mọi người Việt Nam. Gắn với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, tinh thần độc lập, tự chủ, tự tôn.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội thể hiện ở việc tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Đảng khẳng định: Tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tình huống đó chưa có tiền lệ trong lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam. Đường lối đó của Đảng thể hiện ý chí và nguyện vọng thiết tha của cả dân tộc Việt Nam, nên đã động viên đến mức cao nhất lực lượng hùng hậu của nhân dân cả nước, kết hợp tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.
Ba là, Đảng tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn, sáng tạo, thực hiện khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã kế thừa tài đánh giặc đầy mưu lược của tổ tiên, đồng thời phát huy kinh nghiệm phong phú của cuộc Cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến chống Pháp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đánh giặc Mỹ bằng mọi phương tiện và vũ khí có trong tay, từ vũ khí thô sơ đến vũ khí hiện đại, đánh giặc với khí thế cả nước lên đường, toàn dân ra trận. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân đã được phát triển đến một đỉnh cao mới. Tất cả những hình thức, phương pháp đấu tranh trên đây là một thể thống nhất, có quan hệ hữu cơ với nhau, tạo thành chiến lược tổng hợp và nghệ thuật quân sự của khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Đó là phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng tổng hợp bao gồm: lực lượng chính trị quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang nhân dân, bắt đầu khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, và đến một giai đoạn nào đó thì kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị với đấu tranh ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng, kết hợp nổi dậy với tiến công, tiến công với nổi dậy; đánh địch trên cả ba vùng: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị; đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận; kết hợp ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương với chiến tranh của các binh đoàn chủ lực; kết hợp đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ; thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ mở những cuộc tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, đè bẹp quân địch, giành thắng lợi cuối cùng.
Bốn là, Đảng chỉ đạo chiến lược giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.
Đặc điểm của cách mạng nước ta là luôn phải đương đầu với kẻ thù lớn mạnh, tương quan lực lượng giữa ta và địch lúc đầu thường chênh lệch nhiều, chưa có lợi về phía ta. Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Trung ương Đảng luôn luôn theo dõi âm mưu của địch, đánh giá đúng so sánh lực lượng, đề ra những chủ trương chỉ đạo chính xác, sắc bén, linh hoạt, kịp thời, nhằm đánh bại từng bước âm mưu và hành động của địch, tạo điều kiện để tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Đứng trước một cuộc chiến tranh mà đế quốc Mỹ vừa đánh, vừa thăm dò, vừa thí nghiệm các chiến lược, chiến thuật, một cuộc chiến tranh leo thang từng bước không có tiền lệ trong lịch sử, thì việc tìm hiểu về địch và về ta là cả một quá trình. Phải thông qua thực tế chiến đấu với những diễn biến cụ thể trong cuộc đọ sức trên chiến trường mà nhận thức của ta ngày càng sâu sắc, rõ ràng hơn. Một trong những bài học về chỉ đạo chiến lược mà Đảng ta rút ra được là “trên cơ sở phương hướng chiến lược đúng, hãy làm đi, rồi thực tiễn sẽ cho phép ta hiểu rõ sự vật hơn nữa”(2).
Tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng là quyết tâm chiến đấu lâu dài, đánh lùi từng bước, đánh đổ từng bộ phận kẻ địch, giành thắng lợi từng phần, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn; từng bước khắc phục được sự bất lợi khó khăn ban đầu, vừa giữ vững thành quả cách mạng đã giành được, vừa tạo thêm thế và lực để tiến lên vững chắc theo từng giai đoạn cách mạng. Thực hiện phương pháp thắng từng bước, ở mỗi thời kỳ nhất định, Đảng đề ra mục tiêu cụ thể sát hợp nhất, dựa theo quy luật khách quan để lãnh đạo cuộc đấu tranh nhằm thực hiện mục tiêu đó với mức thắng lợi tối đa, hiệu quả nhất, trong thời gian nhanh nhất và ít tổn thất nhất.
Năm là, hết sức coi trọng công tác xây dựng đảng, đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đợi là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Quy luật đó vừa mang tính phổ biến về sự ra đời của các Đảng Cộng sản trên thế giới, vừa mang tính đặc thù ở Việt Nam. Nhận rõ vị trí, vai trò của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, kẻ thù luôn tìm mọi cách tấn công nhằm tiêu diệt Đảng ta. Đặc điểm đó đặt ra yêu cầu phải xây dựng Đảng vững mạnh, quy định nội dung, hình thức biện pháp xây dựng Đảng phải phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Sau năm 1954, trước bối cảnh đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, yêu cầu lớn nhất của công tác xây dựng đảng là bảo đảm cho Đảng ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Tổ chức đảng phải bí mật, gọn, vững chắc, trong sạch, chống bọn phản động chui vào nội bộ Đảng. Trung ương Đảng đã quyết định thành lập một bộ phận của Đảng Lao động Việt Nam để trực tiếp lãnh đạo cách mạng miền Nam - Trung ương Cục miền Nam ra đời (10/1961). Từ tháng 10/1961, Trung ương Cục miền Nam đã trực tiếp xây dựng hệ thống tổ chức đảng đến tận cơ sở, với phương châm “dân bám đất, Đảng bám dân, du kích bám giặc”, bám đất, bám làng lãnh đạo cuộc kháng chiến, đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ. Hiệp định Pari được ký kết, cách mạng nước ta đứng trước thời cơ tiến lên hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đáp ứng yêu cầu đó, tháng 12/1974, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ 23 bàn về “tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu Đảng”. Đây là Hội nghị chuyên đề đầu tiên về xây dựng đảng. Đồng thời với việc xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ”, Đảng luôn luôn coi trọng công tác chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, trong điều kiện lịch sử mới phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Do vậy, trong điều kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh rất chú trọng công tác chỉnh đốn Đảng, nhất là khi cách mạng chuyển giai đoạn, hoặc gặp những khó khăn, thách thức. Trong Di chúc (1969), Người căn dặn: sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”(3). Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, nhiệm vụ lịch sử đã hoàn thành, tháng 9/1975 Trung ương Cục miền Nam tự giải tán. Đến Đại hội Đảng lần thứ IV (12/1976) - đại hội đầu tiên của đất nước thống nhất, Đảng Lao động Việt Nam trở lại tên Đảng Cộng sản Việt Nam - lãnh đạo cách mạng cả nước, cho đến nay.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) là vấn đề mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Đó là cơ sở vững chắc để Đảng kiên định vai trò lãnh đạo và nhân dân ta tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, nó cũng nhắc nhở Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn, trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức để xứng đáng là đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo đất nước, xã hội. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”(4).
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc, thực dân trên đất nước Việt Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hơn lúc nào hết “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(5), để lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi mới./.
___________________________________________________
(1), (2),(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, T.37, tr.472 - 473, 489, 471.
(3) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, T.15, tr.616.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.180.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 11/2021
Bài liên quan
- Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong công tác xây dựng Đảng
- Nâng cao tính chính đáng cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả
- Từ chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến khát vọng xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc hiện nay
- Một số vấn đề về nhận diện bản chất của chủ nghĩa tư bản trong thời đại mới, góp phần củng cố vững chắc định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong công tác xây dựng Đảng
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong công tác xây dựng Đảng
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp to lớn đối với Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân. Đối với công tác xây dựng Đảng, Đồng chí giữ vai trò là ngọn cờ lý luận, là người truyền cảm hứng, là nhà lãnh đạo xuất sắc trong thực hành công tác xây dựng Đảng, là người cộng sản mẫu mực, là tấm gương sáng ngời cho cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện.
Nâng cao tính chính đáng cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Nâng cao tính chính đáng cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Trong quá trình thực thi quyền lực chính trị, tính chính đáng cầm quyền có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tính chính đáng được xây dựng dựa trên cơ sở niềm tin của người dân đối với chủ thể cầm quyền, là sự thừa nhận rằng, chủ thể đó xứng đáng được cầm quyền. Nếu chủ thể cầm quyền có tính chính đáng cao, khi đưa ra các quyết định, các mệnh lệnh, mức độ chấp hành của người dân cũng cao. Điều này quy định tính hiệu quả của việc thực thi quyền lực.
Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả
Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả
Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả là một chủ trương mới, được đưa ra trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, năm 2021. Tuy nhiên, nội dung, phương thức, bản chất của quản trị quốc gia là vấn đề còn khá mới mẻ và có nhiều ý kiến khác nhau. Mặt khác, vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quản trị quốc gia như thế nào? Bài viết góp phần thảo luận và phân tích, làm rõ những nội dung liên quan đến những vấn đề đó.
Từ chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến khát vọng xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc hiện nay
Từ chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến khát vọng xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc hiện nay
Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng ta kế thừa, vận dụng xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Trong bối cảnh mới hiện nay, nhiệm vụ tiếp tục quán triệt giá trị chân lý trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công cuộc đổi mới đất nước, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
Bình luận