Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
1. Đặt vấn đề
Trong những năm qua, với mục tiêu phát triển bền vững, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ rất đáng ghi nhận trên nhiều phương diện xã hội, trong đó có tiến bộ về bình đẳng giới. Những thành công của Việt Nam về bình đẳng giới có được nhờ những nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong việc hoàn thiện khung pháp lý về bình đẳng giới. Cụ thể, năm 1982, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Vào năm 2006, Quốc hội cũng đã thông qua Luật Bình đẳng giới. Một năm sau, vào năm 2007, Luật về phòng chống baọ lực gia đình cũng đi vào thực tiễn đời sống(1). Với khung pháp lý hoàn thiện và chặt chẽ, Việt Nam đã trở thành quốc gia có phụ nữ được hưởng bình đẳng chính thức theo luật pháp, được tham gia lực lượng lao động và có khả năng tiếp cận cơ hội kinh tế tương đối cao, đồng thời có sức khỏe ngày càng cải thiện và trình độ học vấn ngày càng cao hơn. Tuy nhiên, căn cứ vào xếp hạng của Việt Nam ở chỉ số giới toàn cầu cho thấy, phụ nữ Việt Nam đã có nhiều cơ hội để tham gia kinh tế, có những cải thiện về thành tựu giáo dục, tuy nhiên vẫn còn cần tiếp tục nỗ lực để phụ nữ được tạo cơ hội phát triển toàn diện hơn nữa(2).
Định kiến giới vẫn còn tồn tại có thể là một trong những rào cản khiến bình đẳng giới vẫn chưa đạt được toàn diện. Định kiến giới tồn tại trong chính nhận thức của mỗi người, trong môi trường sống quan trong như: gia đình, nhà trường, phương tiện truyền thông. Bài viết đề cập đến trải nghiệm định kiến giới của sinh viên Hà Nội. Nghiên cứu được thực hiện tại 3 trường đại diện cho 3 khối ngành tiêu biểu (kinh tế; kỹ thuật; khoa học xã hội, truyền thông): Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Đại học Kinh tế Quốc dân và Đại học Giao thông Vận tải. Tổng mẫu nghiên cứu đã chọn tại 3 trường là 468 sinh viên: trong đó sinh viên HVBCTT chiếm 36,1%; sinh viên Đại học Kinh tế Quốc dân chiếm 35,04% và sinh viên Đại học Giao thông Vận tải là 28,85%. Nghiên cứu hướng đến trả lời các câu hỏi như:
- Định kiến giới có còn tồn tại phổ biến hay không và trong những môi trường nào?
- Sinh viên có trải nghiệm về định kiến giới trong những môi trường như: gia đình, nhà trường, truyền thông như thế nào và môi trường nào vẫn còn đang tồn tại định kiến giới phổ biến nhất?
2. Kết quả nghiên cứu
- Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của sinh viên
Thực tế, xoá bỏ định kiến giới là một quá trình nhiều thách thức và cần thời gian vì định kiến giới hình thành trong một quá trình rất dài, ăn sâu vào nếp nghĩ, khuôn mẫu tư duy của nhiều thế hệ, thậm chí là chuẩn mực quy chiếu trong sinh hoạt, ứng xử, được phản ánh trên truyền thông, sách, báo ... Tuy nhiên, để đạt được bình đẳng giới thì dần xoá bỏ định kiến giới là việc làm rất cần thiết vì khi đó phụ nữ và nam giới mới được "tháo bỏ" những quy chuẩn, khuôn mẫu để phát triển bản thân dựa theo nhu cầu, năng lực.
Thực tế, đối với nữ sinh viên, việc họ thường xuyên phải đối mặt với nhận xét về sự "không phù hợp" với một số nghề nghiệp, bị giảm giá trị trong các cuộc thảo luận hoặc chịu áp lực từ chuẩn mực “nữ tính” đã trở thành những hiện tượng tương đối phổ biến. Việc khảo sát mức độ và tần suất xuất hiện của các hành vi này không chỉ giúp làm rõ thực trạng mà còn góp phần chỉ ra môi trường có nguy cơ cao duy trì định kiến giới. Kết quả trải nghiệm về định kiến giới của sinh viên trong mẫu nghiên cứu như sau:
Bảng 1: Tần suất xuất hiện định kiến giới trong cuộc sống (1 = chưa bao giờ; 2 = hiếm khi; 3 = thi thoảng; 4 = thường xuyên; 5 = rất thường xuyên)

Từ kết quả của khảo sát từ bảng trên, sinh viên nữ đã và đang phải đối mặt với nhiều hình thức định kiến giới trong cuộc sống, tại trường học hoặc trong những môi trường xã hội lớn hơn. Mức độ bắt gặp nội dung định kiến trên mạng xã hội cao nhất với điểm trung bình là 3,54 và chỉ có 6,8% sinh viên được hỏi cho biết họ chưa từng gặp định kiến giới trên MXH. Bên cạnh đó, có hơn 56% sinh viên cho biết họ thường xuyên hoặc rất thường xuyên đối mặt với định kiến giới trên MXH. Ngoài ra, tỉ lệ sinh viên cho biết họ bị cho là không phù hợp với một số công việc vì là nữ cũng còn cao (trên 50%). Không phổ biến như định kiến trên MXH hay bị đánh giá công việc không phù hợp do là nữ, tuy nhiên tỉ lệ sinh viên cho biết họ đã từng bị trêu chọ co có hành vi không nữ tính hay ý kiến bị xem nhẹ hơn so với nam giới cũng vẫn còn ở mức tương đối phổ biến (trên 15% ý kiến cho biết thường xuyên trải nghiệm sự phân biệt đối xử và định kiến này và tỉ lệ sinh viên "thi thoảng" rơi vào hoàn cảnh này đều trên 22%).
Thông tin tổng hợp từ một số các phỏng vấn sâu (PVS) khác cũng cho thấy sinh viên nữ chia sẻ họ thường xuyên nhận được những lời khuyên về gia đình nhưng mang tính áp đặt về việc ưu tiên chọn chồng tốt hơn là theo đuổi sự nghiệp. Họ cảm thấy bị đặt vào vị trí so sánh và bị đánh giá về ngoại hình nhiều hơn so với nam giới. Cụ thể trích dẫn từ một số PVS từ nghiên cứu:
"Trong những dịp họp mặt gia đình, em vẫn hay được được hỏi về việc có người yêu chưa, rồi nghe người lớn chia sẻ quan điểm, thậm chí nhắn nhủ "phụ nữ hơn nhau tấm chồng". Công việc ổn định, quan trọng là có gia đình, chồng con vẫn là thứ mà em cảm nhận rất rõ mọi người trong gia đình kỳ vọng ở em" (PVS, nữ, sinh viên năm 3).
"Trong nhiều bữa cơm gia đình em, mọi người có thể nói nhiều chuyện, nhưng câu chuyện phổ biến nhất cuối cùng vẫn là về việc con gái nên sớm lấy chồng, ra trường đi làm độ một hai năm là nên lấy chồng, sinh con con đẻ cái. Bố mẹ tỏ ra khá lo lắng khi em con gái lại học ngành kỹ thuật, khô khan .... Bố mẹ cũng thường so sánh em với anh trai, kêu con trai lấy vợ muộn càng tốt, hình thức cũng không quan trọng nhưng con gái thì cần chăm chút vẻ bề ngoài vì không để muộn là ế. Con trai dù nhiều tuổi đến đâu vẫn có cơ hội lấy vợ trẻ đẹp nhưng con gái thì có thì, qua tuổi là rất khó lấy chồng ...." (PVS, nữ, sinh viên năm 4).
Những khuôn mẫu tư duy hay định kiến còn tồn tại vô hình trung đã tạo ra áp lực ngoại hình lớn cho phụ nữ, họ cảm thấy tự ti và lo lắng khi không “đáp ứng” được các tiêu chuẩn được đặt ra. Định kiến giới vẫn đang len lỏi dai dẳng trong nhiều hình thức và ảnh hưởng rất nhiều tới đời sống cá nhân. Không chỉ giảm sự tự tin trong họ mà còn cản trở khả năng phát triển vốn có, khả năng phát triển một cách bình đẳng.
- Các môi trường xuất hiện định kiến giới
Môi trường sống có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và duy trì các định kiến giới. Trong đó, gia đình, nhà trường và mạng xã hội là những không gian xã hội cơ bản có ảnh hưởng sâu sắc đến cách mà các khuôn mẫu giới được tiếp nhận và tái sản xuất. Gia đình là nơi đầu tiên con người được giáo dục, có thể vô tình nuôi dưỡng định kiến qua cách phân công vai trò giới, kỳ vọng về hành vi, hay định hướng nghề nghiệp theo giới. Bên cạnh đó, nhà trường là môi trường vốn được kỳ vọng là khách quan và công bằng nhưng đôi khi vẫn tồn tại những biểu hiện định kiến giới thông qua cách thức tổ chức hoạt động, thái độ của giảng viên, hay mối quan hệ bạn bè giữa các sinh viên. Tiếp theo, sức mạnh lan truyền, chia sẻ thông tin của mạng xã hội là điều không thể phủ nhận, từ đó cũng góp phần vào việc lan truyền định kiến giới đã có. Việc phân tích các môi trường này giúp làm rõ bối cảnh xã hội nơi hành vi định kiến giới nảy sinh và tồn tại, từ đó cung cấp cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp giáo dục và truyền thông giới phù hợp hơn. Dữ liệu từ Bảng 2 cho thấy, định kiến giới vẫn hiện diện trong môi trường sống và học tập của nữ sinh viên.
Bảng 2: Tỷ lệ nữ sinh viên tiếp cận/ từng trải qua định kiến giới tại các môi trường xã hội khác nhau (Đơn vị: %).

Về mạng xã hội, với tính chất lan truyền nhanh, đa chiều và ít kiểm soát, mạng xã hội vừa là không gian bộc lộ định kiến, vừa là nơi tiếp tục củng cố và khuếch đại những khuôn mẫu giới truyền thống. Do đó, việc xem xét mức độ trải nghiệm định kiến giới trên mạng xã hội là cần thiết để nhận diện rõ hơn tác động của môi trường này đến tư duy và hành vi của người trẻ trong xã hội hiện đại. Trên mạng xã hội, tỷ lệ nữ sinh viên đã từng trải nghiệm về định kiến giới lên đến 92,5%, cao nhất trong sáu môi trường khảo sát thể hiện ở bảng trên. Điều này phản ánh rõ rệt rằng mạng xã hội là không gian phổ biến và dễ dàng để các hành vi định kiến giới được thể hiện. Những biểu hiện thường thấy như bình luận mang định kiến, áp đặt khuôn mẫu giới, phán xét ngoại hình của phụ nữ, đã và đang tồn tại với tần suất cao. Bởi lẽ, cơ chế ẩn danh, tính lan truyền nhanh và thiếu kiểm soát nội dung khiến định kiến giới dễ bị hợp thức hóa, thậm chí được cổ súy một cách vô thức trong các tương tác hàng ngày. Ngược lại, chỉ có 7,5% nữ sinh viên cho biết chưa từng trải nghiệm định kiến giới trên mạng xã hội - một con số rất nhỏ, cho thấy mức độ phổ biến gần như tuyệt đối của hiện tượng này.
Hiện tại sinh viên tham gia vào rất nhiều MXH khác nhau, dưới đây là số liệu tổng hợp trải nhiệm định kiến giới của sinh viên trên không gian các MXH khác nhau mà sinh viên tham gia:
Bảng 3: Tỷ lệ sinh viên trải nghiệm nội dung định kiến giới đẳng giới trên các nền tảng mạng xã hội.

Bảng trên cho thấy, Facebook là nền tảng có tỷ lệ người dùng từng gặp phải các nội dung tiêu cực này cao nhất, chiếm 94%, tiếp đến là Tiktok (91%) và Youtube (67,3%). Instagram cũng có tỷ lệ tương đối cao (66,9%); Zalo và X (Twitter) lại có tỷ lệ thấp hơn, lần lượt là 20,7% và 42,9%. Đáng chú ý, Zalo có đến 79,3% người cho biết chưa từng thấy các nội dung này, điều này có thể xuất phát từ đặc điểm người dùng Zalo chủ yếu sử dụng cho mục đích liên lạc cá nhân và công việc hơn là tiếp cận các thông tin truyền thông. Tương tự, X (Twitter) với mức độ phổ biến tại Việt Nam chưa cao nên số lượng người dùng bắt gặp nội dung liên quan đến định kiến giới cũng không nhiều.
Tiếp theo là môi trường làng xóm, môi trường sống: với 82,7% sinh viên nữ cho biết đã từng trải nghiệm định kiến giới. Đây là không gian sinh hoạt thường nhật, nơi các quy ước truyền thống và chuẩn mực văn hóa vẫn còn ăn sâu, tạo điều kiện cho định kiến giới tiếp tục được duy trì. Tỷ lệ chưa từng trải nghiệm ở đây chỉ chiếm 17,3%, cho thấy định kiến giới vẫn là vấn đề thường trực trong cộng đồng dân cư.
Đáng chú ý, có tới 80,6% nữ sinh viên cho biết đã từng trải qua định kiến giới trong môi trường nhà trường. Thực tế, định kiến giới trong trường học có thể vẫn còn tồn tại ẩn trong mối quan hệ giữa sinh viên với sinh viên, giữa giáo viên, cán bộ làm công tác quản lý giáo dục với sinh viên, trong các hoạt động ngoại khoá ... Phân tích về trải nghiệm định kiến giới ở 3 môi trường trong mẫu nghiên cứu, kết quả cho thấy tỉ lệ sinh viên cho biết chưa từng trải nghiệm định kiến giới ởi Đại học Kinh tế Quốc dân là cao nhất (28%) và cao hơn đáng kể hai trường còn lại.
Truyền thông đại chúng cũng là một môi trường còn tồn tại định kiến giới khá phổ biến: 73,1% nữ sinh viên thừa nhận từng trải nghiệm định kiến giới trên môi trường truyền thông đại chúng. Tỉ lệ này ít hơn so tỉ lệ trải nghiệm định kiến giới trên truyền thông xã hội, tuy nhiên dữ liệu vẫn cho thấy đây là môi trường khá phổ biến của định kiến giới. Định kiến giới có thể vẫn còn tồn tại trong: phim ảnh, quảng cáo, nhận xét hay lời bình, lời khuyên từ phóng viên, phát thanh viên, khách mời về chuẩn mực phụ nữ, chuẩn mực nam giới, tiêu chuẩn sắc đẹp nữ giới, khuôn mẫu về người phụ nữ thành công. Dù là gián tiếp, các nội dung này có ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức và hành vi của công chúng.
Trong môi trường gia đình, có 57,3% nữ sinh viên cho biết đã từng trải nghiệm định kiến giới - một tỷ lệ tuy thấp hơn các môi trường trên, nhưng vẫn cho thấy rõ ràng rằng gia đình, vốn là môi trường xã hội hóa đầu tiên, vẫn góp phần duy trì những khuôn mẫu giới truyền thống. Các biểu hiện có thể là sự phân công vai trò, kỳ vọng khác biệt giữa con trai và con gái, vẫn còn tồn tại. Có 42,7% nữ sinh chưa từng gặp phải định kiến giới trong gia đình - đây là tín hiệu tích cực, cho thấy sự thay đổi trong một bộ phận gia đình hiện đại.
Theo giả thuyết ban đầu, môi trường gia đình nông thôn sẽ có xu hướng tồn tại định kiến giới phổ biến hơn gia đình đô thị, tuy nhiên kết quả nghiên cứu cho thấy thực tế không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về trải nghiệm định kiến giới của sinh viên trong gia đình nông thôn và đô thị. Kết quả phân tích dữ liệu cho thấy tỉ lệ sinh viên sống trong gia đình nông thôn đã từng trải nghiệm định kiến giới là 57,5% và tỉ lệ này ở gia đình đô thị là 57%, sự khác biệt là không đáng kể và không có ý nghĩa thống kê.
3. Kết luận, khuyến nghị
Như vậy có thể thấy rằng định kiến giới vẫn còn tồn tại phổ biến trong xã hội, trong các môi trường hàng ngày sinh viên sống, học tập, tham gia các hoạt động xã hội. Trong các môi trường nói trên môi trường mạng xã hội hiện nay chính là môi trường diễn ra định kiến giới phổ biến và rõ rệt nhất, tiếp đến là môi trường sống, môi trường học đường trong nhà trường. Kết quả này cho thấy xoá bỏ định kiến giới trong xã hội vẫn là công việc cần được ưu tiên truyền thông và có chiến lược, giải pháp cụ thể trong giai đoạn tới. Hướng giải pháp có thể tham khảo định hướng từ kết quả nghiên cứu như sau:
- Ưu tiên giải pháp xoá bỏ định kiến giới trên không gian mạng xã hội vì đây là môi trường tồn tại định kiến giới phổ biến nhất. Các giải pháp cụ thể bao gồm: tăng cường truyền thông xoá bỏ định kiến giới trên không gian mạng, xây dựng quy tắc ứng xử văn minh trên không gian mạng trong đó có tiêu chí và quy định về vi phạm nguyên tắc về định kiến giới, lên án những hành vi vi phạm chuẩn mực có liên quan đến định kiến giới.
- Tăng cường truyền thông xoá bỏ định kiến giới trong môi trường học đường và gia đình, trong đó đối tượng hướng đích bao gồm cả thầy cô giáo, cha mẹ, những người làm công tác quản lý giáo dục; Trong quá trình phê duyệt, rà soát các tài liệu truyền thông, ấn phẩm, giáo trình cần đưa thêm các tiêu chí về xoá bỏ định kiến giới. Bên cạnh đó, tập huấn lồng ghép xoá bỏ định kiến giới cũng cần được đưa vào các hoạt động ngoại khoá, lồng ghép trong các hướng dẫn quy tắc ứng xử trong gia đình, nhà trường từ giai đoạn sớm.
- Tiếp tục tăng cường truyền thông, tập huấn hoặc lồng ghép tập huấn đối với nhà báo, những người hoạt động trong lĩnh vực truyền thông, quảng cáo, đạo diễn phim .... cũng như đưa vào bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp đối với nhà báo về định kiến giới và xoá bỏ định kiến giới trong các sản phẩm truyền thông./.
__________________________________________
(1) Oxfam, 2016, Báo chí và định kiến giới với lãnh đạo nữ, tại trang: https://cng-cdn.oxfam.org/vietnam.oxfam.org/s3fs-public/file_attachments/Full%20Report%20VN_0.pdf
(2) UN Women, 2021, Tổng quan về bình đẳng giới ở Việt nam 2021, tại trang: https://vietnam.un.org/sites/default/files/2021-12/CGEP_Full%20report_Ti%E1%BA%BFng%20Vi%E1%BB%87t.pdf
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
- Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
- Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
- Tăng cường quản lý công chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh ở Đông Nam Bộ hiện nay
- Vai trò của cấp ủy cơ sở tại tỉnh Điện Biên trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025: thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng
Xem nhiều
-
1
Một số giải pháp xử lý thông tin giả, sai lệch, xuyên tạc tác động đến dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay
-
2
Vai trò của cấp ủy cơ sở tại tỉnh Điện Biên trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025: thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng
-
3
Nâng cao hiệu quả quản lý thông tin hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
4
Quản trị truyền thông tiếp thị tích hợp của các trung tâm đào tạo công nghệ thông tin tại Việt Nam
-
5
Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu số trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiên nay
-
6
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Ngoại giao văn hóa Nhật Bản thông qua Manga và Anime trong quảng bá Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 và một số gợi mở thực tiễn đối với Việt Nam
Ngoại giao văn hóa là hình thức sử dụng quyền lực mềm để quốc gia mở rộng ảnh hưởng. Ngày nay, hoạt động này càng hiệu quả nhờ các phương tiện đa dạng. Anime và manga của Nhật Bản đã lan rộng toàn cầu, thu hút đông đảo người hâm mộ, góp phần thúc đẩy sự thấu hiểu và chia sẻ giá trị chung. Việc sử dụng chín nhân vật manga nổi tiếng cùng sự hợp tác với các hãng anime để quảng bá Thế vận hội giúp Nhật Bản lan tỏa tinh thần thể thao và tạo nên mối quan hệ cộng sinh tích cực. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu ngoại giao văn hóa của Nhật Bản qua anime và manga trong quảng bá Thế vận hội Tokyo 2020, đồng thời đưa ra gợi ý về việc ứng dụng công cụ văn hóa trong ngoại giao và thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau qua thể thao.
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội và một số khuyến nghị
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng trải nghiệm định kiến giới của nữ sinh viên Hà Nội trên cơ sở kết quả nghiên cứu chọn mẫu với cỡ mẫu là 468 sinh viên thuộc 3 trường Đại học tại Hà Nội (Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Giao thông vận tải, Học viện Báo chí Tuyên truyền). Kết quả nghiên cứu cho thấy, sinh viên nữ vẫn thường xuyên đối mặt với định kiến giới trong các môi trường khác nhau, trong đó, định kiến giới trên môi trường mạng xã hội (MXH) là phổ biến nhất, tiếp đến là môi trường sống, môi trường học đường, truyền thông đại chúng. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc cần phải tiếp tục có giải pháp phù hợp dần xoá bỏ định kiến giới trong các môi trường xã hội, đặc biệt môi trường MXH.
Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Trên thực tế, việc thường xuyên duy tu, sửa chữa tài sản, đầu tư cơ sở vật chất mới tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) trong thời gian qua đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra, là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng và phát triển Học viện cũng như thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao. Các quy định về đầu tư, quản lý tài sản đã được quan tâm nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi để phù hợp với quy định chung của Nhà nước và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; các biện pháp cụ thể để tăng cường đầu tư, tu chỉnh tài sản cũng liên tục được bổ sung, hoàn thiện, hướng tới việc sử dụng tài sản đúng công năng, tiết kiệm, hiệu quả và minh bạch. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đầu tư cơ sở vật chất trong thời gian qua của Học viện cũng đã bộc lộ một số bất cập. Bài viết trình bày thực trạng kết quả đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện thời gian qua, nêu những vấn đề còn tồn tại và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác đầu tư cơ sở vật chất, phục vụ chiến lược phát triển Học viện trong giai đoạn mới.
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác xử lý tài liệu hiện nay
Bài viết phân tích sự cần thiết của việc xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại các thư viện. Cung cấp thông tin về hoạt động tình nguyện viên tại các thư viện trên thế giới và Việt Nam. Sự cần thiết xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Đồng thời, bài viết đưa ra một số giải pháp xây dựng đội ngũ tình nguyện viên tại Trung tâm Thông tin khoa học trong công tác xử lý tài liệu.
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
Tăng cường nguồn lực tài chính cho chuyển đổi xanh ở Việt Nam
Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với những thách thức ngày càng nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường, chuyển đổi xanh đã trở thành xu thế phát triển tất yếu, được nhiều quốc gia lựa chọn nhằm hướng tới tăng trưởng, phát triển bền vững, bao trùm và bảo vệ môi trường sinh thái. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước xác định rõ phát triển xanh là một trong những định hướng chiến lược trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 và thể hiện cam kết mạnh mẽ qua việc tham gia các sáng kiến toàn cầu. Để thực hiện thành công chuyển đổi xanh, một trong các yếu tố then chốt là phải bảo đảm nguồn lực tài chính đủ, ổn định và hiệu quả. Tài chính không chỉ là điều kiện vật chất để triển khai các chương trình, dự án xanh, mà còn là công cụ định hướng hành vi kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực quản trị môi trường và thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh. Trong khi nhu cầu tài chính cho chuyển đổi xanh ngày càng gia tăng, khả năng huy động và sử dụng nguồn lực tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, đặt ra yêu cầu cần có những giải pháp nhằm tăng cường nguồn lực tài chính phục vụ mục tiêu phát triển xanh, bền vững trong thời gian tới.
Bình luận