Tôn giáo trong đời sống văn hóa, xã hội đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nguyên hiện nay
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược về an ninh - quốc phòng của Việt Nam. Hiện nay, khu vực Tây Nguyên có 47/54 dân tộc Việt Nam cùng sinh sống, trong đó chiếm tỷ lệ lớn gồm các dân tộc: Ê Đê, Ba Na, Xơ Đăng, Giẻ Triêng,... Tín ngưỡng truyền thống của các dân tộc ở Tây Nguyên là tín ngưỡng đa thần, tiêu biểu là các loại hình tín ngưỡng thờ thần (Yang), tín ngưỡng liên quan đến sản xuất, tín ngưỡng vòng đời người,...
Trong bối cảnh mới của dân tộc và thời đại, nhiều phong tục, tập quán, nghi lễ tín ngưỡng truyền thống của các DTTS Việt Nam nói chung, ở Tây Nguyên nói riêng đã tỏ ra không còn phù hợp và đang dần mai một hoặc trở thành gánh nặng kinh tế đối với đồng bào. Sự mai một và suy giảm vai trò của hệ thống tín ngưỡng đa thần truyền thống khiến một bộ phận đồng bào DTTS ở Tây Nguyên thiếu vắng điểm tựa tâm linh, đây là một trong những lý do đồng bào tìm đến với các tôn giáo.
Hiện nay, bên cạnh các loại hình tín ngưỡng đa thần truyền thống, ở Tây Nguyên còn có sự hiện diện của các tôn giáo như Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Cao Đài và một số hiện tượng tôn giáo mới. Công giáo hiện có 391.385 tín đồ(1) là người dân tộc Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng, Ê Đê, Mnông, Cơ Ho, Mạ, Chu Ru. Tin lành có 563.556 tín đồ(2) ở các dân tộc Ê Đê, Mnông, Gia Rai, Chơ Ro, Ba Na, Chu Ru, Giẻ Triêng. Phật giáo có 14.716 tín đồ(3) trong các dân tộc Gia Rai, Ba Na, Xơ Đăng, Ê Đê, Mnông, Chơ Ro, Mạ, Cơ Ho. Đạo Cao Đài có khoảng 100 tín đồ người dân tộc thiểu số. Ngoài ra, còn có sự xuất hiện của nhiều hiện tượng tôn giáo mới như: Hà Mòn, Pơ khắp Brâu, Amí Sara, Canh tân Đặc sủng, Cây Thập giá Chúa Jêsu Krist, Giáo hội Tin lành Đấng Christ Việt Nam,...
1. Khi phát triển vào vùng đồng bào DTTS ở Tây Nguyên, các tôn giáo như Tin lành, Công giáo, Phật giáo với những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của mình đã có những tác động tích cực nhất định vào sự phát triển của đời sống văn hóa - xã hội.
- Đạo đức tôn giáo góp phần giáo dục cho đồng bào DTTS
Khi tôn giáo phát triển trong các cộng đồng DTTS, những giá trị, chuẩn mực đạo đức của các tôn giáo, những điều khuyên răn trong cách ứng xử của con người với đấng siêu nhiên, với tự nhiên, giữa con người với con người, và con người với chính bản thân mình trong giáo thuyết của các tôn giáo vừa có những nét tương đồng, vừa có những điểm khác biệt, mới mẻ so với hệ giá trị tín ngưỡng truyền thống, tạo nên sức hút, góp phần thay đổi một số quan niệm, chuẩn mực đạo đức và lối sống của đồng bào. Đồng bào theo các tôn giáo tự giác tuân thủ những lời răn dạy, tích cực tu dưỡng đạo đức, sống hướng thiện, yêu thương gia đình, yêu thương đồng loại, tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Thực tế cho thấy, trong các cộng đồng dân tộc theo tôn giáo ở Tây Nguyên không có tình trạng bỏ vợ, bỏ chồng không chính đáng, không có tình trạng ngược đãi, bạo hành trong gia đình, các loại tệ nạn xã hội ít xảy ra.
Qua khảo sát đánh giá sự chuyển biến trong đời sống đạo đức cá nhân của đồng bào theo tôn giáo, có 66,67% trong số 450 cán bộ từ cấp tỉnh đến cấp xã ở khu vực Tây Nguyên trả lời cho rằng các tôn giáo góp phần giáo dục tinh thần bình đẳng, hướng thiện(4). Thực tế cho thấy, đạo đức tôn giáo đã góp phần duy trì đạo đức xã hội trong một bộ phận đồng bào, góp phần hướng đồng bào đến hệ giá trị mới phù hợp với những giá trị và chuẩn mực của xã hội hiện đại, chân - thiện - mỹ.
- Góp phần xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
Khi du nhập, phát triển vào vùng đồng bào DTTS ở Tây Nguyên, một số tôn giáo với những nghi lễ giản đơn, tiết kiệm đã góp phần thay đổi những quan niệm, tập tục lạc hậu, những nghi lễ rườm rà, tốn kém trong sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống, góp phần thay đổi nếp sống văn hóa của đồng bào theo hướng tiến bộ hơn, văn minh hơn. Trẻ em được quan tâm, khuyến khích học hành nâng cao trình độ học vấn, các gia đình, buôn làng, cộng đồng được hướng dẫn tổ chức cuộc sống văn minh hơn. Kết quả khảo sát trong 302 người theo tôn giáo ở khu vực Tây Nguyên (Phật giáo 77; Công giáo 153 và Tin lành 72) cho thấy: có 50,95% tín đồ cho rằng, theo tôn giáo không phải thực hiện nhiều nghi lễ rườm rà tốn kém; 78,15% cho rằng quy định không được uống rượu say của tôn giáo là phù hợp; 98,34% cho rằng tôn giáo hướng dẫn giữ gìn vệ sinh, môi trường(5).
Tham gia tôn giáo, đồng bào thay đổi lối sống, phù hợp với điều kiện mới, đặc biệt trong bộ phận đồng bào theo Công giáo và đạo Tin lành. Đồng bào theo Công giáo và đạo Tin lành khi ốm đau không còn mời thày mo, thày cúng về đuổi ma, trừ tà mà đến cơ sở y tế để khám chữa bệnh; cưới hỏi, tang ma được thực hiện theo các nghi lễ tôn giáo, tiết kiệm hơn và từ bỏ nhiều nghi lễ, tập quán lạc hậu.
Một cán bộ làm công tác tôn giáo ở tỉnh Kon Tum cho biết: “Trước đây, trong lễ cưới, lễ tang, lễ bỏ mả, người dân tộc giết trâu bò ăn uống no say vài ba ngày. Nhưng ngày nay, nhờ sự tuyên truyền của các linh mục, mục sư, tình trạng nói trên đã hạn chế rất nhiều, hiện tượng giết mổ trâu bò, rượu chè dài ngày gần như không còn trong người dân tộc theo đạo”(6).
Qua khảo sát ở khu vực Tây Nguyên, có 67,11% cán bộ cho rằng, tôn giáo góp phần tích cực vào ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân, bảo vệ môi trường; 73,34% cho rằng tôn giáo góp phần giảm bớt tệ rượu chè, cờ bạc, hủ tục lạc hậu trong ma chay, cưới hỏi; 58,67% cán bộ cho rằng tôn giáo khuyên người dân đến các cơ sở y tế khám, chữa bệnh(7).
Tham gia tôn giáo, đồng bào cũng tham dự các hoạt động cộng đồng cầu nguyện, tu học, có thời gian thư giãn, mở rộng quan hệ xã hội, có thêm sự động viên, tương trợ nhau khi khó khăn, có thêm kiến thức mới. Kết quả khảo sát cho thấy, 90,73% tín đồ tôn giáo cho rằng, tôn giáo đem lại cho họ sự an ủi về tinh thần, tâm linh; 89,74% tín đồ cho rằng, theo tôn giáo giúp họ mở rộng các mối quan hệ; 89,73% cho rằng được chia sẻ khi khó khăn, hoạn nạn và 80,53% cho rằng có thêm kiến thức mới để làm ăn(8).
Có thể thấy, những giá trị văn hóa tôn giáo được một bộ phận đồng bào DTTS ở Tây Nguyên tiếp nhận và thực hành trong cuộc sống, từ đó góp phần đẩy lùi những hủ tục, tập quán lạc hậu.
- Tôn giáo góp phần bảo lưu giá trị văn hóa dân tộc
Cùng với quá trình mở rộng ảnh hưởng, các tổ chức tôn giáo đã có những cách thức, biện pháp để từng bước hội nhập, tiếp nhận trở lại những giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc.
Với đường hướng hội nhập văn hóa, Công giáo đang từng bước nỗ lực đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên bằng cách đào tạo các chức sắc, chức việc người dân tộc; dịch kinh sách ra tiếng dân tộc, dạy tiếng dân tộc cho đồng bào; tổ chức trưng bày hiện vật văn hóa các dân tộc; cho phép tín đồ thực hành một số sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng truyền thống; sử dụng cồng chiêng và mặc trang phục truyền thống trong các lễ hội tôn giáo hay các buổi lễ ở nhà thờ,... Nhiều nhà thờ Công giáo hòa trộn kiến trúc phương Tây và nét kiến trúc nhà rông, hoa văn truyền thống của các DTTS đã được xây dựng ở Tây Nguyên.
Phật giáo cũng bước đầu có những biến đổi để thích nghi với bản sắc văn hóa các dân tộc Tây Nguyên. Đã có những mái chùa được thiết kế theo mái nhà rông như chùa Khánh Lâm, chùa Huệ Chiếu ở Kon Tum. Trong dịp lễ Phật đản năm 2019, đồng bào ở huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk đã sử dụng voi Tây Nguyên rước ảnh Phật về các buôn làng. Trong sinh hoạt của đạo Tin lành, cồng chiêng cũng được sử dụng ở một số điểm nhóm,...
Có thể nói, xu thế hội nhập văn hóa dân tộc đã mang lại cho tôn giáo ở Tây Nguyên một diện mạo riêng, đồng thời góp phần bảo tồn, gìn giữ giá trị văn hóa Tây Nguyên, làm phong phú văn hóa - nghệ thuật Việt Nam.
- Tôn giáo có những đóng góp tích cực trong công tác xã hội, từ thiện
Cùng với quá trình truyền giáo, mở rộng ảnh hưởng, thời gian qua, các tôn giáo đã đóng góp tích cực vào các hoạt động xã hội, từ thiện vùng đồng bào DTTS ở Tây Nguyên. Ở một số nơi, tổ chức tôn giáo đã xây dựng được cơ sở giáo dục trường mầm non, dạy nghề, cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở lưu trú cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn; tổ chức phòng khám và phát thuốc miễn phí cho người có hoàn cảnh khó khăn. Tại tỉnh Lâm Đồng, các tổ chức tôn giáo hiện có 86 cơ sở giáo dục mầm non tư thục (Công giáo 85, Phật giáo 1); có 4 cơ sở dạy nghề; hàng chục cơ sở lưu trú cho học sinh, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; 20 cơ sở bảo trợ xã hội(9). Tại chùa Bửu Châu (Thành phố Pleiku), tỉnh Gia Lai có trung tâm bảo trợ xã hội nuôi dưỡng hơn 50 trẻ mồ côi, cơ nhỡ. Tại chùa Phổ Minh (thành phố Buôn Mê Thuột), tỉnh Đắk Lắk có trung tâm dưỡng lão và phòng khám Đông - Tây y),...
- Tôn giáo tham gia tích cực vào hoạt động bảo vệ môi trường
Những năm qua, các tôn giáo cũng tham gia tích cực vào phong trào bảo vệ môi trường do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tài nguyên và Môi trường phát động. Sau khi ký cam kết tham gia bảo vệ môi trường, các tổ chức tôn giáo trong vùng đã từng bước thực hiện, đưa vào chương trình hoạt động, bước đầu tạo được những hiệu ứng tích cực, lan tỏa ý thức bảo vệ môi trường trong đồng bào các dân tộc. Một số địa phương vùng đồng bào DTTS Tây Nguyên đã hình thành những mô hình bảo vệ môi trường có ý nghĩa, như mô hình xây dựng giáo xứ, giáo họ “An toàn, sáng - xanh - sạch - đẹp” ở giáo xứ Thánh Mẫu, Phường 7, thành phố Đà Lạt, giáo xứ Phi Liêng, huyện Đam Rôn; khu dân cư bảo vệ môi trường của Mục sư Ha Thương ở thôn Đa Hoa, xã Tu Tra, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng,...(10)
2. Bên cạnh những đóng góp tích cực, cụ thể, thiết thực, sự mở rộng ảnh hưởng của tôn giáo ở Tây Nguyên cũng gây không ít tác động tiêu cực tới đời sống văn hóa, xã hội của đồng bào.
Đa phần tín đồ theo các tôn giáo thì hầu như từ bỏ những sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống, niềm tin vào các “Yang” trong tín ngưỡng truyền thống được thay thế bằng niềm tin tôn giáo. Cùng với việc từ bỏ sinh hoạt tín ngưỡng đa thần, một bộ phận lớn tín đồ Công giáo và Tin lành cũng đồng thời từ bỏ các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ truyền thống. Nhà rông không còn là địa điểm sinh hoạt văn hóa quan trọng đối với tín đồ Công giáo và Tin lành, thay vào đó là thường xuyên đến nhà thờ, nhà nguyện. Số tín đồ Công giáo và Tin lành tham gia các lễ hội truyền thống của dân tộc cũng không nhiều.
Khảo sát cho thấy, chỉ có 42/153 tín đồ Công giáo (chiếm 27,45%) và 28/77 tín đồ Tin lành (chiếm 38,89%) có tham gia lễ hội dân tộc. Trong khi đó, số lượng tín đồ của 2 tôn giáo này tham gia các lễ hội tôn giáo chiếm tỷ lệ cao (75,16% ở tín đồ Công giáo và 62,5% ở tín đồ đạo Tin lành)(11). Có 70,67% số cán bộ ở khu vực Tây Nguyên được hỏi cho rằng tôn giáo có tác động đến phong tục, lễ hội truyền thống của dân tộc(12).
Sự phát triển tôn giáo đã làm gia tăng sự đa dạng của xã hội Tây Nguyên, đã từng gây nên những mâu thuẫn, bất hòa giữa các nhóm cộng đồng, gây ra rất nhiều khó khăn thách thức cho công tác quản lý nhà nước. Đó là mâu thuẫn do sự khác biệt niềm tin giữa những người theo và không theo đạo; giữa cộng đồng người Mông theo đạo Tin lành di cư từ các tỉnh miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên với các cộng đồng cư dân tại chỗ; mâu thuẫn trong các hệ phái cùng tôn giáo và giữa các tôn giáo trong cạnh tranh, phát triển tín đồ;... Mặc dù những mâu thuẫn này hiện đã phần nào được giải quyết, nhưng vẫn còn rất nhiều vấn đề đang đặt ra cho công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
Bên cạnh đó, dưới tác động của tôn giáo, thiết chế buôn làng truyền thống ở Tây Nguyên đã có nhiều thay đổi. Ở nhiều buôn làng theo Công giáo và đạo Tin lành, thiết chế tôn giáo tồn tại song trùng với thiết chế buôn làng truyền thống, khiến cho thiết chế buôn làng trở nên lỏng lẻo hơn, thậm chí bị phá vỡ, vai trò của già làng và các giá trị của luật tục bị suy giảm; truyền thống cộng đồng dựa trên những giá trị văn hóa dân tộc bị suy yếu.
Sự phát triển nóng của tôn giáo vào vùng đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên còn gây nên những phức tạp về an ninh chính trị và tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định xã hội. Đó là những hoạt động lợi dụng tôn giáo vào các mục đích chính trị, như những cuộc biểu tình, bạo loạn liên quan đến Tin lành Đề ga xảy ra năm 2001, 2004 và các cuộc biểu tình xảy ra các năm sau đó ở nhiều địa phương trong khu vực; lợi dụng hiện tượng Hà Mòn để mưu đồ ly khai, thành lập nhà nước tự trị ở Tây Nguyên những năm gần đây; sự xuất hiện của nhiều hiện tượng tôn giáo mới, trong đó có những hiện tượng hoạt động trái thuần phong mỹ tục, mê tín dị đoan,...
Một số kiến nghị, khuyến nghị từ nghiên cứu thực tiễn
Đối với Đảng, Nhà nước: Tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách, tạo điều kiện cho tôn giáo tham gia đóng góp vào các lĩnh vực của đời sống văn hóa, xã hội; rà soát, điều chỉnh, bổ sung, đồng bộ các quy định pháp luật về khai thác, phát huy giá trị văn hóa, đạo đức và nguồn lực của các tôn giáo.
Đối với các địa phương ở Tây Nguyên: Các tổ chức trong hệ thống chính trị địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ trong công tác dân tộc, tôn giáo, thực thi hiệu quả chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; định hướng hoạt động tôn giáo tuân thủ pháp luật; khuyến khích và tạo điều kiện cho tôn giáo tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các lĩnh vực an sinh xã hội, bảo vệ môi trường; khuyến khích và tạo điều kiện cho tôn giáo hội nhập văn hóa dân tộc, khôi phục không gian văn hóa truyền thống, bảo tồn, giữ gìn giá trị văn hóa gắn với sinh hoạt tôn giáo. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh hiệu quả với các hoạt động lợi dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo.
Các tổ chức tôn giáo ở Tây Nguyên cần cụ thể hóa đường hướng hoạt động của giáo hội, tích cực hội nhập văn hóa, khuyến khích và thúc đẩy tín đồ phát triển kinh tế - xã hội. Quản lý chặt chẽ hoạt động của chức sắc, chức việc, tín đồ, bảo đảm hoạt động tôn giáo tuân thủ quy định của pháp luật. Các chức sắc, nhà tu hành cần gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; luôn trau dồi đạo đức, giữ gìn phẩm hạnh, là những tấm gương sáng trong tu học và hành đạo để tín đồ noi theo học tập. Đồng thời, chức sắc, nhà tu hành cần chủ động, tích cực truyên truyền, vận động tín đồ chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; hướng dẫn đồng bào thực hành đạo đức tôn giáo trong xây dựng cuộc sống, bảo vệ, giữ gìn văn hóa truyền thống và cảnh giác trước những âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc./.
___________________________________________
(1), (3) Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Vụ Dân tộc-Tôn giáo: Tổng hợp số lượng tín đồ tôn giáo khu vực Tây Nguyên tính theo tôn giáo và người theo tôn giáo (tính đến tháng 11.2016), Buôn Ma Thuột, ngày 9.12.2016.
(2) Ban Dân vận Trung ương: Số liệu thống kê Tin lành (tính đến tháng 3.2017), Hà Nội, 2017, dẫn theo: Nguyễn Thanh Xuân, “Những biến đổi của đạo Tin lành ở Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6.2019, tr.104.
(4), (5), (6), (7), (8), (11), (12) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Tư liệu khảo sát, điền dã của đề tài: Những vấn đề mới trong tôn giáo, tín ngưỡng ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay, thực hiện tại Đắk Lắk, Kon Tum, Lâm Đồng các năm 2018-2020.
(9) Đặng Xuân Hồng: Hoạt động an sinh xã hội của các tổ chức tôn giáo ở tỉnh Lâm Đồng, kiến nghị về chủ trương và giải pháp (Ban Tôn giáo Chính phủ, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Quản lý Nhà nước đối với nguồn lực của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Hà Nội, 2019.
(10) http://danvan.vn/Home/Cong-tac-ton-giao/7248/Lam-Dong-Cac-ton-giao-tich-cuc-tham-gia-giu-gin-an-ninh-trat-tu.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 21.9.2021
Bài liên quan
- Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
2
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
3
Tác động của quảng cáo sản phẩm trên mạng xã hội đến hành vi mua sắm của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
-
4
Thông điệp “Ý Đảng, Lòng Dân” trong các chương trình xây dựng Đảng trên truyền hình
-
5
[Ảnh] Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025-2030 (Phiên thứ nhất)
-
6
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tư tưởng Hồ Chí Minh - sự kết tinh giá trị nhân văn và tầm vóc thời đại, ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc, mang tầm chiến lược, kết hợp giữa đạo lý dân tộc, lý luận cách mạng và tinh thần nhân văn toàn cầu. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, tư tưởng Hồ Chí Minh định hướng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam, có giá trị soi chiếu cho việc hình thành chiến lược phát triển bền vững, ổn định xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế, nâng tầm vị thế quốc gia.
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tên của Tổng thống Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Tổng thống Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Tổng thống Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Bình luận