Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của dân tộc với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới hiện nay
Đứng vững trên nền tảng tư tưởng của mình, chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhất quán với chân lý ấy theo hướng sáng tạo, bền vững thông qua chủ trương toàn dân bàn việc nước - toàn dân thảo luận và góp ý với Đảng để dự thảo báo cáo chính trị trình đại hội lần thứ X đi tới hoàn thiện. Trong đó, nhiệm vụ đối ngoại được tiếp tục khẳng định lại, bao gồm cả việc xác định nó phải "góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội". Đó là nhiệm vụ được xác định phù hợp với tình hình mới đang có nhiều diễn biến phức tạp, còn tồn tại một bộ phận những người đang tìm cách chống phá cách mạng Việt Nam thông qua các hình thức hoạt động nhằm hạ thấp nền tảng tư tưởng của Đảng, đặc biệt họ muốn cô lập Việt Nam trên trường quốc tế thì sự nhất trí giữa Đảng và dân như vậy càng có nhiều ý nghĩa. Trước hết thấy rõ để có sự nhất trí cao thì cần phải hiểu thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về định hướng này trong nhiệm vụ đối ngoại, để góp phần củng cố và phát triển vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, thực hiện có hiệu quả nhất các nhiệm vụ đối ngoại trong tình hình mới.
Có thể nói, ngay từ những chặng đầu tiên đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã sớm nhận ra chân lý này, bằng nhiều mối quan hệ nhằm tạo ra sức mạnh để đủ sức đẩy lùi mọi trở ngại, để mỗi dân tộc có cơ sở tồn tại và phát triển bền vững. Ngay từ năm 1919, trong yêu sách của nhân dân An Nam, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định mỗi dân tộc chân chính đều có nghĩa vụ góp phần vào sự nghiệp tiến bộ của toàn nhân loại trong đó có dân tộc của nhân dân Pháp. Người nói: "nhân dân An Nam biết rằng nhân dân Pháp đại biểu cho tự do và công lý và không bao giờ từ bỏ lý tưởng cao cả của mình là tình bác ái toàn thế giới. Vì thế nghe theo tiếng nói của những người bị áp bức, là nhân dân Pháp sẽ làm tròn nhiệm vụ của mình đối với nước Pháp và đối với nhân loại"(1). Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi và bằng mọi hình thức đấu tranh nhưng nổi bật nhất vẫn là các hoạt động tuyên truyền, tham luận, tranh luận, báo chí... với nhiều bài viết trên báo Le Paria, L’humanité, viết tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp"... đã nhấn mạnh sự nhục nhã nhiều lần của nhân dân các nước thuộc địa, nhằm thức tỉnh nhân dân các nước, nghĩa là thức tỉnh nguyên tắc này trong tất cả các dân tộc để họ tham gia đấu tranh và góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh chống đế quốc tàn bạo - góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Năm 1923 trong thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định tư tưởng ấy rõ hơn thông qua thái độ hài lòng của Người đối với nhiều mục tiêu cách mạng theo hướng đó đã đạt kết quả tốt: "công việc của chúng ta" "hội liên hiệp thuộc địa" và tờ báo Người cùng khổ đã có những kết quả tốt. Nó làm cho nước Pháp, nước Pháp chân chính hiểu rõ những việc xảy ra trong các thuộc địa. Vì thế mà nước Pháp chân chính sẽ là một thành viên góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung. Đó là một tư tưởng nhất quán, cho nên đối với dân tộc của mình lúc nào Hồ Chí Minh cũng xác định rõ ràng một trách nhiệm như vậy. Điều ấy càng trở nên sâu sắc khi nó được khẳng định lại ở cả những giờ phút thiêng liêng nhất, trân trọng nhất - những giờ phút cuối cùng còn lại của đời người! Trước khi vĩnh biệt thế giới này Hồ Chí Minh vẫn căn dặn toàn Đảng toàn dân phải "góp phần xứng đáng vào sự nghiệp của cách mạng thế giới". Đó là những lời giáo huấn khẳng định quy luật và khẳng định nhiệm vụ cho dân tộc. Đó cũng là cơ sở để hiểu thêm lý do tại sao mà Hồ Chí Minh lại quyết định đi sang phương Tây tìm đường cứu nước và có thể hiểu được rằng trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa yêu nước - một giá trị đạo lý có sức mạnh không gì thay thế của Việt Nam phải được liên tục nhân lên để cứu nước. Nghĩa là đòi hỏi phải thể hiện chủ nghĩa yêu nước chân chính, từ chủ nghĩa yêu nước mà băng qua mọi khó khăn gian khổ để tìm sức mạnh lớn nhất của nhân loại, để biến nó thành động lực mới cho chủ nghĩa yêu nước làm cho sức mạnh có từ chủ nghĩa yêu nước liên tục được nhân lên, liên tục đáp ứng những đòi hỏi của đất nước. Sức mạnh ấy chính là cái đích thực của những giá trị tiến bộ nhất đã được nêu lên như: "tự do, bình đẳng, bác ái". Để phấn đấu cho nó, sau một thời gian tìm đường cứu nước, khi hiểu ra vấn đề Hồ Chí Minh thấy rằng: ước mơ ngàn đời ấy chỉ là đích thực và chỉ trở thành hiện thực khi con đường đi tới là cách mạng vô sản, là phong trào đấu tranh cho mục tiêu dân chủ triệt để được thúc đẩy. Cách mạng tháng Mười và xu thế đấu tranh cho hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội do chính cuộc cách mạng ấy mở ra và thúc đẩy đã là một kết quả như vậy - là sức mạnh thời đại mà Hồ Chí Minh đã đi tới, đã tiếp nhận nó mà điểm xuất phát là chủ nghĩa yêu nước. Người nói "Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi đi theo Lênin"(2). Đi theo con đường của Lênin cả nhân loại tiến bộ đã hợp thành xu thế chung như trên đã xác định. Hồ Chí Minh không chỉ thấy rõ xu thế ấy là xu thế đi tới: "tự do, bình đẳng, bác ái" đích thực cho nên nó có sức mạnh bất diệt mà còn khẳng định đó là tài sản chung của nhân dân thế giới cho nên mỗi dân tộc đều có thể khai thác nhưng đồng thời phải có nghĩa vụ góp phần phát triển nó. Năm 1922, Hồ Chí Minh kêu gọi "lao động tất cả các nước đoàn kết lại" cũng có ý nghĩa như vậy.
Với tầm nhìn sâu sắc về bản chất tốt đẹp của con người của tất cả các dân tộc chân chính cho nên truyền thống hoà hiếu trong đối ngoại của nhân dân Việt Nam được phát triển ở Hồ Chí Minh rất bền vững. Đặc biệt khi truyền thống ấy được phát triển trên cơ sở nền tảng tư tưởng của mình là chủ nghĩa Mác-Lênin thì tư tưởng ấy của Người càng trở nên sâu sắc. Sự phát triển ấy thấy rõ trong tư tưởng gắn bó hoà hiếu toàn nhân loại, cả thế giới lao động và tiến bộ đã được xác định là chỗ dựa quan trọng nhất cho sự tồn tại và phát triển của mọi dân tộc. Với tầm nhìn ấy Người nêu ý tưởng tập hợp lực lượng:
Quan sơn muôn dặn một nhà
Vì trong bốn biển đều là anh em(3)
Đó cũng là thông điệp hoà bình, góp phần tạo dựng, nhắc nhở và thúc đẩy xu hướng hoà thuận gắn bó với nhau để có nền hoà bình ổn định, để các dân tộc giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, cùng nhau góp phần làm cho cái gia đình chung của mình bền vững, để mỗi dân tộc thành viên có chỗ dựa. Với tinh thần ấy nhân dân Việt Nam càng thấy rõ vị trí, trách nhiệm của mình rằng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, có trách nhiệm góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung mà nó luôn luôn coi là điểm tựa. Sự khẳng định ấy càng rõ ràng, khách quan bởi cách mạng Việt Nam trong thực tế đã phản ánh xu thế hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội "là lương tri của nhân loại", nó hàm chứa đầy đủ lợi ích và trách nhiệm của nhân dân Việt Nam trong xu thế chung của nhân dân toàn thế giới.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, các quá trình cách mạng Việt Nam đã thực sự góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới bằng tất cả các hình thức hoạt động.
Với việc đánh thắng hai đế quốc to, Việt Nam đã không chỉ tạo ra tấm gương, có giá trị cổ vũ động viên nhân dân toàn thế giới mà còn góp phần làm chủ nghĩa đế quốc suy yếu, phong trào cách mạng mạnh thêm. Từ tấm gương ấy nhiều nước đã đẩy mạnh hơn những tiến trình cách mạng, rõ nhất là xu hướng độc lập dân tộc "sau Điện Biên", "sau Việt Nam" (sau 1975) càng phát triển mạnh. Sự đóng góp này đã được nhiều bạn bè quốc tế tổng kết và kết luận. Bà A.Bren, trưởng đoàn đại biểu Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển đã phát biểu ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam với tinh thần như vậy: "cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các bạn là một kinh nghiệm lịch sử nóng hổi, đòi hỏi tất cả các thế hệ của thế giới hậu thuộc địa đang nổi lên. ở phương Tây cũng như ở phương Đông, phương Bắc và phương Nam, phải nghĩ lại và xác định các giá trị nhân văn cơ bản mà xã hội cần dựa vào và xây dựng quan hệ của mình với các xã hội khác"(4). Theo hướng đó Việt Nam còn được xác định có khả năng góp phần hết sức sâu sắc và vững chắc vào cách mạng thế giới. Sau khi Liên Xô sụp đổ, sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam vẫn tiếp tục đổi mới thắng lợi đã nói lên tất cả, đã tiếp tục khẳng định xu thế thời đại - xu thế hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội là không thể đảo ngược. Điều ấy cũng lại được bạn bè khắp năm châu khẳng định. A.Hô-Ben-Lô, thành viên lãnh đạo của Đảng Cộng sản Braxin đã kết luận về Đảng Cộng sản Việt Nam với tinh thần như vậy: "Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh tính thời đại và sức sống của chủ nghĩa xã hội"(5). Còn người thay mặt cho Đảng Cộng sản Cuba kiên cường thì nói: "Được tận mắt chứng kiến những thành công của đổi mới, chứng kiến niềm vui và hạnh phúc trên gương mặt mọi người Việt Nam, chúng tôi hoàn toàn tin rằng cũng như trong chiến đấu hôm qua, hôm nay Việt Nam chắc chắn sẽ thành công, chứng minh cho thế giới thấy rằng CNXH là một khả năng thực tế"(6). Nghĩa là Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc khôi phục niềm tin vào CNXH, thấy rõ hơn bản chất của chủ nghĩa tư bản, do đó mà đẩy mạnh hơn sự phát triển xu thế của thời đại.
Như vậy từ những thành tựu đạt được chúng ta càng có cơ sở để hiểu thêm về các yếu tố tạo nên thắng lợi ấy đều có nguồn gốc sâu xa từ những chủ trương đúng- trong đó có chủ trương "góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội". Chủ trương này đã hàm chứa ý thức tạo chỗ dựa vững chắc trong lòng nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới, báo trước những hoạt động chi viện to lớn cho cách mạng Việt Nam làm đảo lộn nhiều cục diện mà kết quả là đã có một quá trình cả nhân loại tiến bộ đứng về phía Việt Nam chống đế quốc và xây dựng, là quá trình cách mạng Việt Nam thực hiện được phương châm biến ít thành nhiều, biến yếu thành mạnh để chống các đế quốc to lớn, để đẩy lùi nghèo nàn lạc hậu, để tiếp tục giữ vững hoà bình, tạo môi trường quốc tế thuận lợi, giúp cho công cuộc đổi mới đang đi vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá thêm nhiều yếu tố thuận lợi.
Có thể nói các quá trình cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ đã hoàn toàn khẳng định nền tảng tư tưởng của mình là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua những đánh giá về thành công và thất bại. Bất cứ lúc nào thể hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh thì cách mạng phát triển vững chắc và ngược lại. Với ý nghĩa đó càng thấy được những nhiệm vụ đối ngoại trong đó có nhiệm vụ "góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội" được xác định trong dự thảo Văn kiện để Đại hội lần thứ X của Đảng quyết định là theo tinh thần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
_________________________
(1) Hồ Chí Minh (1980), Toàn tập, Nxb ST, HN, T1, tr428.
(2) Hồ Chí Minh (1989), Toàn tập, Nxb ST, HN, T8, tr701.
(3) Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Nxb ST, HN, T8, tr362.
(4),(5),(6) Tạp chí Cộng sản số 14 tháng 7.1996, tr 57;58;59
Nguồn: Bài đăng số tháng Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 5.2006
Bài liên quan
- Tăng cường giáo dục thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
- Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
- Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Xem nhiều
- 1 Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
- 2 Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- 3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- 4 Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
- 5 Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
- 6 Một số phương tiện truyền thông mới trên nền tảng web 3.0 hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
Ngày 17/11/2017, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Quan điểm chỉ đạo được nhấn mạnh trong Nghị quyết (NQ) là: “…chủ động thích ứng, phát huy tiềm năng, thế mạnh, chuyển hóa những thách thức thành cơ hội để phát triển, bảo đảm được cuộc sống ổn định…” (1). NQ này đã được các cơ quan liên quan, trong đó có các cơ quan báo chí quán triệt, triển khai thực hiện. Tuy nhiên, để “chuyển hóa những thách thức thành cơ hội”, nhất là với vùng đồng bằng sông Cửu Long, để phát triển bền vững, an toàn, thịnh vượng thì vai trò, trách nhiệm của báo chí cần được nhận thức đầy đủ, chủ động hơn.
Tăng cường giáo dục thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Tăng cường giáo dục thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược của công tác giáo dục thanh niên. Người đã chỉ rõ sự cần thiết; nội dung, phương thức giáo dục thanh niên và trách nhiệm của các chủ thể trong công tác này. Bài viết trình bày khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên và đề xuất giải pháp vận dụng tư tưởng của Người vào công tác giáo dục thanh niên Việt Nam góp phần phát huy vai trò của thanh niên trong kỷ nguyên mới của dân tộc.
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất, Người đã để lại di sản quý báu về tư tưởng, đạo đức, phong cách cho Đảng và Nhân dân ta. Di sản Hồ Chí Minh bao quát rộng lớn các vấn đề của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến lời dạy của Người trong Thư gửi “Quân nhân học báo” tháng 4/1949: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(1) là vấn đề có ý nghĩa thời sự đối với việc nghiên cứu, học tập của cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên làm công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng hiện nay.
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử đặc biệt, có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn, hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc về xây dựng Đảng cầm quyền, đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trải qua 55 năm, di huấn của Người về vấn đề này vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và thời đại.
Bình luận