Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng hệ giá trị quốc gia và hệ giá trị văn hóa
Từ góc độ xã hội học, J.H.Fichter, nhà xã hội học Mỹ đã đưa ra định nghĩa: “Tất cả những gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với con người hoặc nhóm người đều là “có một giá trị”(1). Theo Trần Ngọc Thêm: “Giá trị là những đánh giá của con người về các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái đó là cần, là tốt, là hay, là đẹp, hay đó chính là những cái được con người cho là chân, thiện, mỹ giúp khẳng định và nâng cao bản chất người. Một khi những nhận thức giá trị ấy đã hình thành và định hình thì nó chi phối cách suy nghĩ, niềm tin, hành vi, tình cảm của con người”(2).
Như vậy, giá trị là tất cả những gì mang lại ý nghĩa cho cá nhân và xã hội, được xã hội thừa nhận, trở thành điểm tựa tinh thần, được con người khao khát hướng tới và hành động theo.
Các giá trị phổ quát chung mà nhân loại hướng tới là chân, thiện, mỹ. Chân là chân lý, là khoa học, là cái đúng. Thiện là quan hệ đạo đức tốt đẹp, lành mạnh, hướng tới đề cao lương tâm, danh dự, trách nhiệm và nghĩa vụ của con người. Mỹ là cái đẹp, sự hài hòa và hoàn thiện trong sự sáng tạo vật chất và tinh thần của con người. Các giá trị này được coi là trụ cột phổ quát cơ bản của nền văn hóa thế giới và cũng là các giá trị định hướng đối với tất cả các nền văn hóa khác nhau. Quan niệm giá trị ở đây chỉ bao hàm những gì tích cực tiến bộ, phản ánh khát vọng hướng tới của con người và xã hội. Còn những gì tiêu cực thì xếp vào phạm trù phản giá trị.
Hệ giá trị bao gồm nhiều giá trị liên kết với nhau theo một hệ thống thứ bậc, đảm nhiệm các chức năng xã hội nhất định.
Ba chức năng cơ bản của hệ giá trị là: định hướng, đánh giá, điều chỉnh các quan hệ xã hội. Chức năng định hướng là chức năng xác lập các giá trị cơ bản định hướng cho suy nghĩ và hành động của xã hội, hướng dẫn niềm tin của xã hội vào thực hiện các giá trị tích cực được tuyên bố, cổ vũ cho xã hội thực hiện và noi theo. Chức năng đánh giá được thể hiện thông qua sự phán xét, đánh giá của xã hội đến từng cá nhân hay cộng đồng về quá trình thực hiện các giá trị được tuyên bố xem đúng hay sai và các mức độ thực hiện khác nhau. Chức năng điều chỉnh là chức năng điều tiết các hành vi của cá nhân và xã hội thông qua các thể chế, thiết chế xã hội để hướng các hoạt động xã hội vào thực hiện các giá trị được xã hội thừa nhận, xử lý các hành vi lệch chuẩn với các định hướng giá trị này. Chức năng điều chỉnh có thể thông qua con đường “tự ý thức”, phê bình và tự phê bình để sửa chữa; hoặc cũng có thể điều chỉnh bằng cưỡng bức thông qua luật pháp.
Hiện nay, các châu lục cũng như các quốc gia đều nghiên cứu, đề ra các giá trị khu vực, giá trị quốc gia làm biểu tượng chung cho khu vực và quốc gia mình. Các hệ giá trị châu lục hay hệ giá trị quốc gia mà họ xây dựng đều dựa trên khát vọng, mong muốn chung của từng khu vực, từng quốc gia, phản ánh đặc trưng và bản sắc văn hóa riêng biệt. Thí dụ như hệ giá trị phương Tây được xác định 7 giá trị cốt lõi: 1) Công bằng và chính nghĩa (justice); 2) Quyền/quyền lợi (rights); 3) Bình đẳng (equality); 4) Tự do (Liberty/freedom); 5) Khoan dung (tolerantion); 6) Tự trị/tự lập (autonomy); 7) Dân chủ (democracy)(3).
Năm 2012, Ủy ban châu Âu đưa ra 5 giá trị được người dân châu Âu đề cao là: 1) Hòa bình; 2) Dân chủ; 3) Nhân quyền; 4) Tuân thủ pháp luật; 5) Tinh thần đoàn kết(4).
Ở châu Á, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra các giá trị châu Á nổi bật là: 1) Đề cao đức tính cần cù, yêu lao động; 2) Đề cao giá trị hiếu học; 3) Đề cao giá trị gia đình, huyết tộc; 4) Đề cao giá trị cộng đồng, trách nhiệm xã hội.
Hệ giá trị truyền thống Nhật Bản gồm 8 giá trị: 1) Đoàn kết; 2) Kỷ luật; 3) Nhẫn nại; 4) Trung thành; 5) Trách nhiệm; 6) Lịch sự; 7) Tự chủ; 8) Tránh làm phiền người khác. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Nhật Bản xác định 5 giá trị cốt lõi để hội nhập quốc tế: 1) Cộng sinh, cộng tồn; 2) Biết điều chỉnh bản thân; 3) Tư duy độc lập; 4) Biết sáng tạo cái mới; 5) Tôn trọng sự khác biệt(5).
Malaysia xác định 5 nguyên tắc quốc gia gồm: 1) Tin vào Thượng đế; 2) Trung thành với nhà vua và đất nước; 3) Tuân thủ hiến pháp; 4) Cai trị bằng pháp luật; 5) Hành vi tốt, đạo đức tốt(6).
Singapore đã xây dựng hệ giá trị quốc gia hay được gọi là “các giá trị chung Singapore” được Quốc hội thông qua vào năm 1991, gồm 5 giá trị: 1) Dân tộc trước cộng đồng, xã hội trên cá nhân; 2) Gia đình là đơn vị cơ bản nhất của xã hội; 3) Hỗ trợ cộng đồng và tôn trọng cá nhân; 4) Đồng thuận, không xung đột; 5) Hòa hợp chủng tộc và tôn giáo v.v.. Những giá trị này từng bước được cụ thể hóa thông qua các chuẩn mực hành động để cộng đồng có thể thực hành trong đời sống xã hội, tạo nên bản sắc riêng biệt của từng quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế.
2. Nhận thức của Đảng về xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người
Công cuộc đổi mới đã trải qua 35 năm. Đây là thời kỳ đất nước bước vào đổi mới toàn diện, từ nhận thức lý luận đến hoạt động thực tiễn; từ đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội đến đổi mới về văn hóa, giáo dục, an ninh, quốc phòng, đối ngoại v.v.. Có thể nói, đây là thời kỳ chuyển đổi to lớn, toàn diện và sâu sắc của đất nước trên tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế đã chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ một xã hội tiền công nghiệp với sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là chính, chúng ta từng bước đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế dựa trên những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao. Chủ thể của nền văn hóa không chỉ là nông dân và tầng lớp trí thức gắn bó với nông dân trong xã hội truyền thống mà còn xuất hiện giai cấp công nhân, tầng lớp trí thức, đội ngũ doanh nhân, đội ngũ công chức, quân đội, công an, thanh niên, sinh viên, học sinh v.v.. Cơ sở kinh tế của nền văn hóa không chỉ trông vào sản xuất nông nghiệp kiểu cũ mà là nền nông nghiệp hiện đại, công nghiệp hiện đại, dịch vụ tiên tiến. Môi trường văn hóa không chỉ giới hạn ở môi trường văn hóa nông thôn mà còn đang chuyển mạnh đô thị hóa và phát triển đô thị, xây dựng nông thôn mới, xây dựng đô thị văn minh, đô thị sáng tạo v.v..
Quá trình đổi mới ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh có nhiều tác động tích cực cũng như tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, cách mạng khoa học công nghệ. Trong quá trình chuyển đổi từ truyền thống sang hiện đại, đời sống xã hội nói chung đang diễn ra nhiều mâu thuẫn, nhiều xung đột giữa các giá trị truyền thống và giá trị đương đại, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tích cực và tiêu cực đan xen nhau. Thậm chí, nhiều nơi, nhiều lúc, các phản giá trị nổi lên gây nhiễu loạn và cản trở sự phát triển, làm suy thoái đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và trong nhân dân. Đây là một trong những nguyên nhân đe dọa đến sự ổn định và phát triển của đất nước, của chế độ xã hội. Trong quá trình này, việc xây dựng một hệ giá trị quốc gia và hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực của con người Việt Nam là một đòi hỏi tất yếu để bảo đảm tính định hướng, đoàn kết, đồng thuận của dân tộc, của đất nước trong tiến trình hội nhập và phát triển bền vững.
Ngay từ Đại hội VIII (1996), Đảng ta đã nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của văn hóa, xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã đặt vấn đề: “Hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại”(7).
Văn kiện Đại hội VIII cũng chỉ rõ: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa văn hóa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam; đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hóa độc hại, lai căng, mất gốc. Khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn”(8).
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998) là một nghị quyết có tầm chiến lược về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Nghị quyết đã xác định phương hướng, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là cơ sở chính trị, pháp lý để toàn bộ hệ thống chính trị tham gia vào xây dựng đời sống văn hóa, hình thành các giá trị văn hóa và chuẩn mực văn hóa mới.
Nghị quyết đã nhấn mạnh yêu cầu: “Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới, xã hội chủ nghĩa, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công tác đó, “xây” đi đôi với “chống”; lấy “xây” làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn hóa quý báu của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư, tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện “diễn biến hòa bình”(9).
Đại hội X của Đảng (năm 2005) đã nhấn mạnh: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức với bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”.
Đại hội XI của Đảng yêu cầu: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và ban hành Nghị quyết số 33 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Đảng ta đã xác định một trong những mục tiêu quan trọng đầu tiên phải thực hiện là: “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước”(10).
Đại hội XII của Đảng (2016) đã khái quát thành yêu cầu: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”(11).
Kế thừa và phát triển các quan điểm tư tưởng chỉ đạo của Đảng qua các kỳ Đại hội và các Hội nghị Trung ương về lĩnh vực văn hóa trước đây, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”(12). Như vậy, quá trình nhận thức về xây dựng hệ giá trị đã được Đảng ta nêu ra từ Đại hội VIII và liên tục được khẳng định, tiếp nối, bổ sung và hoàn thiện từng bước. Đến Đại hội XIII, Đảng ta nâng lên một nấc thang mới là xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới.
Nhận thức của Đảng về xây dựng hệ giá trị ở các cấp độ khác nhau đã có sự khu biệt rõ ràng và đã chú ý mối liên hệ biện chứng giữa hệ giá trị của các cấp độ này. Hệ giá trị quốc gia là hệ giá trị tổng quát, bao trùm, chi phối mọi lĩnh vực, mọi hoạt động khác nhau của đời sống xã hội, của quốc gia. Giá trị văn hóa bao quát các giá trị liên quan đến khát vọng chấn hưng văn hóa dân tộc vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Chuẩn mực con người Việt Nam là cụ thể hóa các giá trị quốc gia và giá trị văn hóa để làm thước đo, khuôn mẫu cho mỗi người dân Việt Nam phấn đấu và thực hành. Hệ giá trị gia đình là đơn vị cơ bản của hệ giá trị văn hóa, nó bảo đảm cho hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị quốc gia được phát triển vững chắc và là môi trường thuận lợi để con người thực hành các chuẩn mực văn hóa.
3. Một số vấn đề đặt ra trong nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới
a. Về hệ giá trị quốc gia
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(13). Đồng thời, Cương lĩnh đã xác định mô hình xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới(14).
Như vậy, các giá trị cơ bản của quốc gia hiện nay có thể thống nhất với các mục tiêu mà Cương lĩnh nêu ra là xây dựng quốc gia thịnh vượng với các đặc trưng là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Dân giàu là giàu cả về vật chất và tinh thần. Dân giàu phải gắn với nước mạnh. Nước mạnh là mạnh cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Dân giàu, nước mạnh phải dựa trên nền tảng của dân chủ, công bằng, văn minh, phản ánh đúng bản chất và tính ưu việt của chế độ XHCN, đồng thời tiếp cận với trình độ văn minh cao của khu vực và thế giới.
Như vậy, có thể xác định hệ giá trị quốc gia Việt Nam là Dân giàu; Nước mạnh; Dân chủ; Công bằng; Văn minh. Đồng thời nên bổ sung giá trị Hạnh phúc. Bởi vì hạnh phúc là thước đo cao nhất về sự hài lòng của người dân đối với quốc gia. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đất nước cũng luôn nhấn mạnh đến giá trị hạnh phúc của người dân. Vì vậy, có thể xác định hệ giá trị quốc gia là Dân giàu; Nước mạnh; Dân chủ; Công bằng; Văn minh; Hạnh phúc.
b. Về hệ giá trị văn hóa
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác định phương hướng phát triển văn hóa Việt Nam là: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”(15).
Kế thừa và phát triển các thành tựu của nhiệm kỳ trước, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”(16). Theo tinh thần này, có thể khái quát hệ giá trị văn hóa Việt Nam là: Dân tộc; Nhân văn; Dân chủ và Khoa học. Hiện nay, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN để quản lý đất nước theo Hiến pháp và pháp luật là một nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách. Vì vậy, cần bổ sung giá trị pháp quyền vào hệ giá trị văn hóa dân tộc. Hệ giá trị văn hóa Việt Nam hướng tới vào thực hành là Dân tộc, Nhân văn, Dân chủ, Pháp quyền và Khoa học.
c. Về hệ chuẩn mực con người Việt Nam
Trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng con người. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác định rõ: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, tình nghĩa; có tinh thần quốc tế chân chính”(17).
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã xác định 5 đức tính cần xây dựng gồm:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực(18).
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã nhấn mạnh đến việc gắn kết chặt chẽ hơn nhiệm vụ phát triển văn hóa với xây dựng con người. Đồng thời xác định mục tiêu: “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước”(19).
Nghị quyết này đã nhấn mạnh quan điểm: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”(20).
Như vậy, 7 đặc tính này cơ bản cũng là những chuẩn mực của con người Việt Nam hiện nay: 1) Yêu nước; 2) Nhân ái; 3) Nghĩa tình; 4) Trung thực; 5) Đoàn kết; 6) Cần cù; 7) Sáng tạo.
Theo Trần Ngọc Thêm trong nghiên cứu Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai, hệ giá trị định hướng cốt lõi trọng điểm gồm: Dân chủ và Pháp quyền; Nhân ái và Yêu nước; Trung thực và Bản lĩnh; Trách nhiệm và Hợp tác(21).
Trong nghiên cứu Hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam gần đây, Nguyễn Ngọc Thiện và Từ Thị Loan đề xuất hai phương án: phương án 1 gồm 5 giá trị: yêu nước, trách nhiệm, kỷ luật, sáng tạo, trung thực; phương án 2 gồm 7 giá trị: yêu nước, trách nhiệm, kỷ luật, sáng tạo, trung thực, đoàn kết, nhân ái(22).
Phạm Xuân Nam đề xuất quan điểm về Hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam tiêu biểu cần xây dựng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đó là: 1) Yêu nước, 2) Nhân ái, 3) Dân chủ, 4) Pháp quyền, 5) Bản lĩnh, 6) Cởi mở, 7) Hiếu học, 8) Sáng tạo(23).
Như vậy, trong khi xây dựng hệ giá trị có tính phổ quát trong toàn xã hội, chúng ta cần chú ý bốn trọng tâm cơ bản là lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội, lợi ích gia đình và lợi ích của cá nhân, và đề xuất định hướng giá trị phổ quát này như sau: Quốc gia: Giàu, mạnh; Xã hội: Kỷ cương; Gia đình: Hạnh phúc; Cá nhân: Thành đạt(24). Trong hệ giá trị này, chúng ta vẫn giữ được giá trị và phát huy được giá trị văn hóa truyền thống: Nhà - Làng - Nước và bổ sung thêm một giá trị mới là sự phát triển của cá nhân. Đây là yêu cầu tất yếu của quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Các nghiên cứu để xác định hệ giá trị quốc gia, giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, dưới sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang được triển khai để đi đến một sự thống nhất chung. Đây là công việc hệ trọng cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và đầu tư của Nhà nước, sự tham gia của các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân để tạo nên sự nhất trí và đồng thuận, khơi dậy khát vọng cống hiến vào sự nghiệp đổi mới, góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu mà sự nghiệp đổi mới đặt ra.
___________________________________
(1) F.H.Fichter: Xã hội học, Sài Gòn, 1973, tr.173.
(2), (21) Trần Ngọc Thêm (2016): Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.38, 340.
(3), (4), (5), (6), (22), (23), (24) Xem Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam (2018): Hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr.25-26, 25-26, 25-26, 25-26, 38, 133, 211.
(7), (8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.495, 494.
(9), (18) ĐCSVN (1998): Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. CTQG, Hà Nội, tr.58, 58-59.
(10), (19), (20) ĐCSVN (2014): Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, tr.47, 47, 48-49.
(11), (16) ĐCSVN (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, Hà Nội, tr.126-127, 126.
(12) ĐCSVN (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.143.
(13), (14), (15), (17) ĐCSVN (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, tr.70, 70, 75-76, 76.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 14.6.2021
Bài liên quan
- Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
- Tính nhân văn của Đề cương về văn hóa Việt Nam - động lực xây dựng, phát triển văn hóa đất nước bền vững trong thời đại Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Hội thảo khoa học: “Chuyển đổi số trong công tác tư tưởng, lý luận ở Việt Nam hiện nay”
Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão và đóng vai trò then chốt cho sự phát triển, công tác tư tưởng, lý luận cũng đang đứng trước cơ hội để nâng tầm và hoạt động mạnh mẽ, hiệu lực, hiệu quả nếu biết tận dụng tốt những lợi thế cuộc cách mạng chuyển đổi số 4.0 mang lại.
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Chiều 31/10, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo sư, Tiến sỹ Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3).
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực không những góp phần đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng mà còn góp phần đảm bảo phúc lợi cho người lao động. Vì thế, trong quá trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực – yếu tố then chốt để Việt Nam đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển toàn diện, nhanh và bền vững. Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của nguồn nhân lực, Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã có những chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và đã đạt được những kết quả tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Song, bên cạnh những thành tựu, vẫn con những hạn chế nhất định, vì vậy, cần xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng yếu tố quyết định thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lợi thế cạnh tranh của tỉnh hiện nay trong thời gian tới.
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp sâu sắc đối với sự phát triển lý luận của Đảng về quyền con người. Những quan điểm của Tổng Bí thư sẽ tiếp tục là nguồn cảm hứng và định hướng quan trọng cho các hoạt động về quyền con người trong thời kỳ mới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Theo thông tin từ Hội đồng chuyên môn bảo vệ sức khỏe cán bộ Trung ương, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sau thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao, bệnh nặng, Đồng chí đã từ trần lúc 13 giờ 38 phút, ngày 19-7-2024, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Hưởng thọ 80 tuổi. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân” của Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Bình luận