Xây dựng và hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả ở Việt Nam
Nền quản trị quốc gia hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả - một tiêu chí quan trọng của nhà nước pháp quyền
Xây dựng và hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả luôn là yêu cầu đặt ra trong xây dựng nhà nước pháp quyền của các quốc gia trên thế giới nói chung, trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. Để quản trị hiện đại, tất yếu bộ máy nhà nước phải hoạt động hiệu lực, hiệu quả, và ngược lại, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước là một nhiệm vụ của quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền. Quá trình này nhanh hay chậm phụ thuộc vào những nhân tố chủ quan và khách quan. Về chủ quan, đó là hiện trạng năng lực, tính chuyên nghiệp, đồng bộ của bộ máy công quyền và sự ổn định của quá trình hoàn thiện bộ máy; chất lượng và hiệu quả của hệ thống luật pháp; ý thức “pháp quyền” của người dân; môi trường dân chủ, minh bạch trong xã hội; trình độ dân trí, kết cấu hạ tầng khoa học và công nghệ... Về khách quan, đó là đặc điểm văn hóa, tính ổn định chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc; tác động của các nhân tố bên ngoài... Thực tiễn lịch sử cho thấy, các nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa thì việc xây dựng và hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả sẽ nhanh hơn. Tuy nhiên, do tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình toàn cầu hóa, những nước đi sau vẫn có thể rút ngắn khoảng cách, thậm chí đi tắt, đón đầu quá trình này.
Trình độ phát triển khoa học và công nghệ có ảnh hưởng lớn đến quá trình xây dựng và hoàn thiện nền quản trị quốc gia, nhưng suy cho cùng, nhân tố con người vẫn giữ vai trò quyết định. Đặc điểm, sự vận hành của bộ máy công quyền, nền quản trị quốc gia ở từng nước tuy có khác nhau, nhưng tính hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả của nền quản trị vẫn có thể đo lường ở một số dấu hiệu cơ bản chung. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), có 6 chỉ số để đánh giá chất lượng quản trị quốc gia, bao gồm: vai trò, tiếng nói của người dân và trách nhiệm giải trình; sự ổn định về chính trị và xã hội phi bạo lực; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính phủ; chất lượng của các văn bản, quy định của pháp luật; thượng tôn pháp luật; kiểm soát tham nhũng. Theo đó, để quản trị tốt cần có 3 yếu tố là: 1- Cơ chế kiểm soát quyền lực hay các quy tắc hạn chế sự lạm quyền trong bộ máy công quyền; 2- Sự phản hồi ý kiến của người dân và xã hội về hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nền quản trị quốc gia; 3- Có môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Tính công khai, minh bạch là dấu hiệu căn bản, không thể thiếu trong nền quản trị quốc gia hiện đại, điều này không chỉ bảo đảm cho bộ máy công quyền vận hành hiệu quả, cơ chế giám sát phát huy được tác dụng, mà qua đó, các nguồn lực xã hội được huy động và sử dụng có hiệu quả. Theo cách tiếp cận này, một số tổ chức quốc tế cho rằng, nền quản trị hiện đại có một số đặc điểm, như sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng chính sách; luật pháp và hệ thống xét xử công bằng; tính minh bạch; trách nhiệm giải trình của cơ quan công quyền và hiệu quả của công tác phòng, chống tham nhũng. Một số cách tiếp cận khác lại coi trọng các đặc điểm về sự bình đẳng, tham gia của người dân khi đưa ra các tiêu chí, như Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) cho rằng, nền quản trị quốc gia hiện đại là: Bảo đảm sự tham gia của người dân; sự công bằng của luật pháp; tính minh bạch; đáp ứng mọi bên có liên quan; hướng tới sự đồng thuận; bình đẳng; hiệu lực và hiệu quả; trách nhiệm giải trình; tầm nhìn chiến lược. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) lại nhấn mạnh một số tiêu chí, như trách nhiệm giải trình; sự tham gia của các chủ thể trong quá trình hoạch định chính sách; có thể dự đoán được; tính minh bạch.
Có thể khái quát những đặc điểm cơ bản, hay chuẩn mực chung của nền quản trị quốc gia hiện đại là:
Thứ nhất, tính pháp quyền trong thực hiện quyền lực công. Điều này có nghĩa là, không chỉ trong ban hành chính sách mà trong cả quá trình thực hiện chính sách đều phải tuân thủ pháp luật, các cơ quan công quyền không thể ban hành các quyết định vượt phạm vi, thẩm quyền được pháp luật quy định.
Thứ hai, tính minh bạch. Trong ban hành, thực thi chính sách và các quyết định hành chính, các đối tượng chịu tác động của chính sách phải được biết, được tham gia, người dân được thông tin, thậm chí giám sát cả quá trình ban hành và thực thi chính sách.
Thứ ba, trách nhiệm giải trình. Các cơ quan công quyền khi ban hành chính sách phải có trách nhiệm giải trình về mục đích ban hành, tác động xã hội của chính sách; đồng thời, phải chịu trách nhiệm về hậu quả của chính sách theo đúng thẩm quyền.
Thứ tư, sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Theo đó, người dân phải được cung cấp thông tin, được tạo điều kiện để đóng góp, thể hiện quan điểm của mình trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách; đặc biệt, trong một số trường hợp, người dân được trực tiếp tham gia vào quá trình ban hành chính sách.
Thứ năm, công bằng và không loại trừ. Đây là đặc điểm mang tính tiến bộ, tích cực của chế độ xã hội, khi mà lợi ích của mọi người dân, các nhóm xã hội được cân bằng và coi trọng như nhau trong quá trình ban hành và thực thi chính sách, không ai bị bỏ lại phía sau; đặc biệt, nhóm người yếu thế phải có cơ hội, tiếng nói tham gia vào quá trình quản trị.
Thứ sáu, nhanh nhạy, phản ứng tương thích, kịp thời. Đây là đặc điểm phản ánh hiệu lực, hiệu quả của nền quản trị công, theo đó, các cơ quan công quyền phải phát hiện nhanh, sớm các vấn đề phát sinh và có phản ứng kịp thời, phù hợp để bảo vệ lợi ích của người dân, đất nước và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa. Ngoài ra, các đặc điểm khác, như tầm nhìn chiến lược, phòng, chống tham nhũng... là những dấu hiệu phái sinh, là hệ quả khi thực hiện tốt các đặc điểm chính nêu trên.
Xây dựng và hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả ở Việt Nam: Từ quan điểm đến hiện thực
Quá trình xây dựng và hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả ở Việt Nam luôn gắn liền với quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để Nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trước hết phải chuyển đổi căn bản mô hình, chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, đặc biệt là sau khi Đảng ta ban hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), mô hình nhà nước kiểu mới, hoạt động hiệu lực, hiệu quả luôn là mục tiêu xây dựng và hoàn thiện trong từng nhiệm kỳ đại hội Đảng. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được coi là một trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa và được cụ thể hóa một cách đầy đủ: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân... Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”(1).
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Hiến pháp năm 2013 và nhiều văn bản quan trọng khác của Đảng, Nhà nước khẳng định, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 nhấn mạnh đột phá chiến lược: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành”(2). Thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết khác trên cơ sở các quy luật của thị trường. Chú trọng phát triển xã hội, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản quốc gia,...
Sau 35 năm đổi mới, đặc biệt là 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có bước phát triển mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên. Nội dung, phương thức quản lý nhà nước từng bước được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu phát triển đất nước và thông lệ quốc tế. Hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản. Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước cũng như trong đời sống xã hội. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực. Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn gắn với tinh giản biên chế, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cải cách hành chính của bộ máy nhà nước được đẩy mạnh; kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước được tăng cường. Thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, đối thoại, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo... Cải cách tư pháp trên một số lĩnh vực có bước đột phá, chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Các cơ quan quyền lực nhà nước tiếp tục được củng cố, hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Hoạt động của Quốc hội trong xây dựng pháp luật, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước có nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả được nâng lên. Hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp có nhiều đổi mới. Chính phủ và các bộ, ngành chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô theo hướng chính phủ kiến tạo, chính phủ hành động, phục vụ; tháo gỡ các rào cản; hỗ trợ phát triển. Tổ chức bộ máy chính quyền địa phương được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn; quan tâm triển khai xây dựng chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn, khẩn trương triển khai xây dựng chính quyền điện tử. Tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động có tiến bộ.
Rõ ràng rằng, việc xây dựng và hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả ở Việt Nam được gắn chặt với quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là quá trình từng bước, đồng bộ, có tính kế thừa và tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế, phù hợp với thực tiễn. Các đặc điểm về tính pháp quyền; minh bạch; trách nhiệm giải trình; sự tham gia của người dân; công bằng và không loại trừ; phòng, chống tham nhũng tiếp tục được coi trọng. Một số chỉ số phản ánh mức độ hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nền quản trị quốc gia từng bước thăng hạng trong các đánh giá quốc tế, đặc biệt là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng. Theo WB và cơ quan thống kê của Liên hợp quốc, tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2017 đạt 6,4%/năm, cao hơn mức bình quân của nhóm nước có thu nhập trung bình thấp (5,4%) và các nước Đông Nam Á (5%)(3). Năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công nghiệp Việt Nam, theo đánh giá của UNIDO, từ xếp thứ 58 (năm 2009) lên thứ 44 (năm 2018). Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu tăng vượt bậc, năm 2020 xếp thứ 42/131 quốc gia và nền kinh tế, tăng 17 bậc so với năm 2016, dẫn đầu trong nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập. Theo Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA), kết quả giáo dục phổ thông của Việt Nam đạt điểm cao hơn mức trung bình chung của các nước trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)... Có nhiều sự tiến bộ khác cũng thể hiện hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nền quản trị quốc gia ở Việt Nam, trong đó, thể hiện tập trung nhất là sự đổi mới mạnh mẽ trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Theo kết quả khảo sát của Liên hợp quốc năm 2018, Việt Nam xếp thứ 88/193 quốc gia về chính phủ điện tử trực tuyến, xếp thứ 59/193 quốc gia về chỉ số dịch vụ công trực tuyến. Cả nước có trên 46.800 dịch vụ công, trong đó có 38.587 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 8.590 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Thủ tục hành chính được cắt giảm, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp...(4). Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện, sự tham gia của người dân, tính minh bạch thông tin được coi trọng hơn, các chỉ số đo lường chất lượng quản trị công ở các địa phương được đánh giá thường xuyên. Công tác phòng, chống tham nhũng tiếp tục thu được nhiều kết quả tích cực.
Tuy vậy, nền quản trị quốc gia ở Việt Nam còn có những hạn chế. Việc thực hiện phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương chưa thật đồng bộ, triệt để, đáp ứng được yêu cầu, chưa phát huy được hết vai trò, trách nhiệm, sự chủ động của cấp cơ sở, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, quản lý nguồn lực, chống tham nhũng, tiêu cực. Trách nhiệm giải trình của các cơ quan trong bộ máy nhà nước trước nhân dân có nơi còn mang tính hình thức. Vai trò của hệ thống thông tin, báo chí mặc dù được coi trọng hơn, nhưng việc xử lý thông tin, trách nhiệm thông tin trong giải quyết một số vụ, việc chưa rõ ràng, thậm chí có vụ, việc còn chưa minh bạch.
Một số giải pháp xây dựng, hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả ở Việt Nam trong thời gian tới
Để xây dựng và hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả nói riêng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam nói chung trong giai đoạn mới, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả ở Việt Nam phải tiếp tục được đặt trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo và là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước theo hướng kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế để người dân tham gia đầy đủ hơn vào quá trình hoạch định và thực hiện chính sách. Lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.
Xác định rõ hơn chức năng của Nhà nước trong việc quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở quy luật thị trường; tăng cường công tác giám sát, giảm các tác động tiêu cực của thị trường nhưng không can thiệp, làm sai lệch các quan hệ thị trường. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương, bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hiệu quả hoạt động. Nâng cao chất lượng dịch vụ công.
Hai là, đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Chính phủ, các bộ, ngành theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực. Phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Tăng cường năng lực dự báo và khả năng thích ứng chính sách trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thúc đẩy xây dựng chính phủ điện tử, tăng cường sự kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa các cấp chính quyền, giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm; cải cách thủ tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh gọn hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trong ban hành và thực thi chính sách, lấy lợi ích chính đáng, sự hài lòng của người dân và lợi ích xã hội làm tiêu chí đánh giá.
Ba là, nghiên cứu, chủ động tiếp cận gần hơn pháp luật, tiêu chí quốc tế, những chuẩn mực về quản trị doanh nghiệp, nền quản trị quốc gia hiện đại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong quá trình hội nhập. Xác định đúng và linh hoạt về mức độ can thiệp của Chính phủ đối với nền kinh tế (quy mô, phạm vi tác động) sao cho đạt hiệu quả cao nhất; khắc phục được những thất bại của thị trường, như bất đối xứng thông tin, hàng hóa công, các hiện tượng ngoại ứng, phân hóa giàu - nghèo, bất bình đẳng, tính tự phát... Phát huy vai trò to lớn của Nhà nước trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời, tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí một cách hiệu quả. Các cơ quan công quyền trong quá trình tổ chức thực thi các quyết định đã ban hành phải tuân thủ các quy trình, bảo đảm sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn lực và sự công bằng, bình đẳng, không ai bị bỏ lại phía sau, nhất là các đối tượng yếu thế.
Bốn là, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, bảo đảm để pháp luật được nhận thức và thực hiện đầy đủ trên thực tế. Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; hoạt động tư pháp làm tốt chức năng bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Xây dựng và thực hiện chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn mới theo hướng tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của các cơ quan tư pháp, các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện. Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp.
Năm là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước. Nâng cao tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ luật công vụ của đội ngũ này. Có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, điều kiện làm việc tốt để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển. Đưa ra yêu cầu và có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, không còn uy tín đối với nhân dân. Đẩy nhanh việc đầu tư, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong quản trị doanh nghiệp, quản trị quốc gia, đặc biệt là công nghệ thông tin trong quá trình xây dựng nền kinh tế số, xã hội số. Tiếp cận những thành tựu tiên tiến nhất của nền quản trị quốc gia trên thế giới và ứng dụng một cách phù hợp vào thực tiễn Việt Nam.
Sáu là, hoàn thiện cơ chế thông tin, phản hồi, bảo đảm sự tham gia, giám sát của người dân trên thực tế trong suốt quá trình từ ban hành chính sách, quyết định hành chính đến tổ chức thực hiện chính sách, coi đây là “chìa khóa” nâng cao chất lượng quản trị quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy hành chính minh bạch và có trách nhiệm giải trình; chính phủ điện tử; thiết lập cơ chế đối thoại liên tục; xây dựng hệ thống dịch vụ công hiệu quả, cần đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức xã hội. Nghiên cứu, đưa ra cách tiếp cận lý thuyết về kinh tế thị trường hiện đại, giới hạn can thiệp của Nhà nước theo các chuẩn mực quốc tế; đặc điểm, mô hình quản trị quốc gia hiện đại trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nghiên cứu, phân tích các tiêu chí cụ thể dựa trên bộ tiêu chí quốc tế có thể đo lường được và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tiếp tục bổ sung, phát triển hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,.../.
____________________________________
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 85.
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, T I, tr. 220.
(3), (4) Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử 10.07.2021
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất, Người đã để lại di sản quý báu về tư tưởng, đạo đức, phong cách cho Đảng và Nhân dân ta. Di sản Hồ Chí Minh bao quát rộng lớn các vấn đề của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến lời dạy của Người trong Thư gửi “Quân nhân học báo” tháng 4/1949: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(1) là vấn đề có ý nghĩa thời sự đối với việc nghiên cứu, học tập của cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên làm công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng hiện nay.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận