“Dân thụ hưởng” - giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
“Dân thụ hưởng” là một trong những điểm mới rất quan trọng trong tổng thể phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(1) mà Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, là sự khẳng định sâu sắc hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. “Dân thụ hưởng” là giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là đích đến cuối cùng, là mục tiêu tối thượng của một nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Lấy “dân làm gốc” là bài học truyền thống trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(2). Đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã bổ sung một nội dung mới, quan trọng và có ý nghĩa vô cùng nhân văn - đó là “dân thụ hưởng”. Như vậy, có thể khẳng định, Đảng luôn chú trọng đặt quyền lợi của người dân vào vị trí trung tâm mọi chủ trương, đường lối, thể hiện sự quan tâm thiết thực đến đời sống của nhân dân, đến mục đích cuối cùng là người dân được thụ hưởng mọi thành quả của sự phát triển.
Đây là mối quan hệ biện chứng, tương hỗ giữa thụ hưởng và cống hiến, tạo xung lực mới trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, tạo nền tảng hoàn thiện và hiện thực hóa thêm một bước tư tưởng phát huy quyền làm chủ, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, ngày 24-11-2023, “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”, đánh giá “Quyền làm chủ của Nhân dân được coi trọng, ngày càng đi vào thực chất, nhất là dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở, tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình. Vai trò của Nhân dân trong tham gia, quyết định chính sách liên quan đến cuộc sống, những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước được phát huy; quyền con người, quyền công dân được đề cao. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chú trọng tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, giải quyết kiến nghị, bức xúc của Nhân dân... Tuy nhiên, việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở một số lĩnh vực, địa bàn hiệu quả chưa cao, chưa khơi dậy, phát huy được tiềm năng to lớn trong Nhân dân. Một số chính sách chưa sát với thực tiễn, còn nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện”(3).
Nội hàm “dân thụ hưởng” có thể khái quát trên một số nội dung cốt lõi sau đây:
Thứ nhất, “dân thụ hưởng” là người dân được nhận, được hưởng thành quả của sự phát triển. “Dân thụ hưởng” nhấn mạnh nhân tố lấy “dân làm gốc”, trọng dân, tin dân, để nhân dân được thụ hưởng đầy đủ thành tựu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng... nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(4).
Đất nước phát triển nhanh và bền vững tạo nền tảng bảo đảm các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho người dân được quan tâm, nâng cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Việc thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội giúp nhân dân, đặc biệt là bộ phận yếu thế trong xã hội, người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ổn định sản xuất, đời sống, nâng cao thu nhập, xóa đói, giảm nghèo nhanh, bền vững. Qua đó, góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội. “Dân thụ hưởng” hướng đến quyền cơ bản của con người, bảo đảm công bằng xã hội, góp phần xây dựng một xã hội hài hòa, đồng thuận, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững đất nước.
Chúng ta cần “một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội”(5). Các thành tựu phát triển chỉ thực sự vẹn toàn ý nghĩa khi mang lại lợi ích thiết thân cho người dân - mục tiêu đúng đắn và chân chính của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ hai, “dân thụ hưởng” là đáp ứng các lợi ích đa dạng trong xã hội của nhân dân, biến lợi ích thành động lực cho phát triển. “Dân thụ hưởng” nhấn mạnh việc hiện thực hóa nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, “có làm có hưởng”. Động lực chính cho sự phát triển là hài hòa tổng thể lợi ích của cá nhân, tập thể và xã hội. Các “cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân... Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. / Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(6).
“Dân thụ hưởng” thể hiện sự quan tâm thiết thực đến đời sống của người dân, nghĩa là người dân có quyền được thụ hưởng thành quả tốt đẹp, tiến bộ của sự phát triển. “Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần... Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(7). Khi người dân được thụ hưởng, được thỏa mãn lợi ích hợp pháp, chính đáng sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi người hăng hái cống hiến, đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển của đất nước.
Thứ ba, “dân thụ hưởng” là mọi chủ trương, chính sách phải tạo ra sự thay đổi tích cực trong đời sống của nhân dân. Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ thực tiễn và từ chính nhu cầu chính đáng, hợp pháp của nhân dân, “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”(8). Khi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng ý dân, hợp lòng dân, phát huy tốt vai trò chủ thể của nhân dân, nhân dân sẽ tích cực hưởng ứng, tham gia, phong trào sẽ nhanh chóng sâu rộng, được hiện thực hóa trong cuộc sống. “Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người...; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(9).
Như vậy, việc thụ hưởng của nhân dân không chỉ là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua chủ trương, chính sách chăm lo, bảo đảm cuộc sống của nhân dân, mà còn được nâng lên thông qua sự chủ động của nhân dân khi tham gia thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhân dân không chỉ được thông tin đầy đủ, kịp thời, được giám sát việc thực thi chính sách, được tạo điều kiện để tham gia học tập, công tác, lao động, sản xuất, kinh doanh, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bản thân, gia đình và cộng đồng, mà còn được thụ hưởng thành quả đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội. Đây cũng là biểu hiện sinh động của ý Đảng hợp với lòng dân, là quá trình tiếp tục củng cố, bồi đắp niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Thứ tư, chủ thể “dân thụ hưởng” là nhấn mạnh tính bao trùm, đến đa số nhân dân lao động, mọi tầng lớp. “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ/ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân/... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(10). “Dân thụ hưởng” thể hiện quan điểm rất thực tiễn của Đảng - thụ hưởng vật chất và thụ hưởng tinh thần đều rất quan trọng đối với mọi người dân. “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ;... con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”(11).
Phát triển kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho một nhóm người, mà còn phải mang lại lợi ích cho toàn dân, mang lại cuộc sống tốt đẹp nhất cho con người. Việt Nam hướng đến một xã hội phát triển không chỉ giàu có và thịnh vượng về mặt kinh tế, không chỉ bảo vệ được môi trường, mà còn là một xã hội cân bằng và hài hòa lợi ích giữa các tầng lớp, giữa các nhóm xã hội - một xã hội hài hòa theo hướng đoàn kết, hợp tác, hướng đến sự cân bằng.
“Dân thụ hưởng” - những kết quả đạt được trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
Hơn 93 năm qua, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới đất nước, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân luôn là một trong những quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong đường lối lãnh đạo của Đảng. Tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta nêu quan điểm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó là nền nếp hằng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý Nhà nước của mình.
Các Đại hội VII, VIII, IX, X tiếp tục khẳng định, bổ sung, phát triển nội hàm phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, nhất là về điều kiện, cơ chế bảo đảm và môi trường thực hiện. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục nhấn mạnh: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”(12). Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra””(13).
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đại hội XIII khẳng định: Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Thời gian qua, thực tiễn thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” nói chung, bảo đảm và phát huy “dân thụ hưởng” nói riêng trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng và tích cực. Chúng ta đã thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của tổ chức và công dân...
Tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết những bức xúc và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đảng ta luôn chú trọng đặt quyền lợi của nhân dân vào trung tâm các quyết sách, đường lối, với mục đích tối thượng là người dân được thụ hưởng mọi thành quả của sự phát triển. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.
Trong quá trình thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc chúng ta đã đạt được những kết quả nổi bật, “Phát triển những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc: Phát huy vai trò của chính quyền nhà nước trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc; Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội; Chú trọng công tác xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(14).
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, vẫn còn những biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật. Ở một số nơi, nhân dân chưa được biết những vấn đề, nội dung liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình. Năng lực, phẩm chất, ý thức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa cao; còn tình trạng tham nhũng, nhũng nhiễu, gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp. Việc thực hiện “dân thụ hưởng” còn một số hạn chế, thiếu thực chất và chưa đầy đủ, tạo thành rào cản lớn đối với sự phát triển của đất nước. Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và chưa giải quyết kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của người dân.
Một số giải pháp bảo đảm và phát huy “dân thụ hưởng” ở nước ta thời gian tới
Để thực hiện tốt, bảo đảm và phát huy “dân thụ hưởng” ở nước ta hiện nay, cần tập trung thực hiện hiệu quả một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tập trung làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tổ chức, cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về dân chủ, thực hành dân chủ.
Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của việc thực thi, phát huy dân chủ, nhất là “dân thụ hưởng” ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Động viên, khuyến khích nhân dân chủ động, tích cực thực thi, sử dụng các quyền dân chủ và đấu tranh bảo vệ quyền dân chủ; chủ động nâng cao trình độ hiểu biết về dân chủ, phấn đấu, rèn luyện phương pháp thực hành dân chủ và có bản lĩnh thực hành dân chủ. Chú trọng nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức về vai trò của nhân dân, về nhà nước phục vụ, kiến tạo và ý thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân.
Đẩy mạnh mở rộng, đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân thông qua phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tăng cường công tác đối thoại trực tiếp với nhân dân, thường xuyên sâu sát, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng, kịp thời giải quyết thấu đáo kiến nghị, đề xuất chính đáng của nhân dân. Tăng cường tuyên truyền thành quả mà đất nước đã đạt được, củng cố niềm tin vững chắc của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hai là, đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước.
Tăng cường, khuyến khích vận động nhân dân tham gia xây dựng hệ thống chính trị, các thiết chế bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Tiếp tục rà soát, cụ thể hóa để nhân dân ngày càng phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo trong tham gia hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhân dân phải được coi là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân;... lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.
Tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, đảng viên. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
Gắn giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tội phạm và tệ nạn xã hội. Coi trọng gắn kết chặt chẽ thực hiện công bằng xã hội với chính sách kinh tế và chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, tạo hành lang pháp lý để kiến tạo mô hình hệ thống an sinh xã hội.
Ba là, đề cao trách nhiệm nêu gương về thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội của tổ chức, cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị.
Phát huy vai trò gương mẫu của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu... Đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào thi đua. Đặc biệt chú trọng bồi dưỡng, giáo dục, củng cố, phát huy năng lực, tư duy hiện đại và thái độ vì nhân dân phục vụ, tận tụy và cống hiến của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Cán bộ, công chức phải thực sự cầu thị, coi trọng ý kiến, phản ánh của người dân, gần gũi, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và bức xúc của người dân để đối thoại, tiếp thu, phản hồi, xử lý nhanh nhạy, kịp thời và hiệu quả.
“Dân thụ hưởng” phải được bắt đầu từ việc trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung. Thực hiện tốt, hiệu quả trong thực tế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên. Kiên quyết đấu tranh với hiện tượng xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng; thái độ mị dân, lừa dân, dọa nạt dân, chạy theo lợi ích tầm thường, song cũng không theo đuôi quần chúng. Mỗi tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị phải thật sự là người đại diện, là điểm tựa để nhân dân phát huy quyền làm chủ trong quá trình tham gia phát triển kinh tế - xã hội tại cơ sở.
Bốn là, chú trọng thực hiện hiệu quả, thực chất Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai thực hiện hiệu quả Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở; đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến các quy định về dân chủ ở cơ sở gắn với triển khai tốt các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Thực hiện công khai, minh bạch chính sách của Nhà nước, đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, làm cho mọi người dân thực sự được thụ hưởng các quyền và lợi ích chính đáng.
Phát huy vai trò của chính quyền trong thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy việc phục vụ nhân dân là trên hết, giải quyết đúng đắn, kịp thời những vấn đề có liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân. Quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ để nhân dân thực sự chủ động trong phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, xóa đói, giảm nghèo bền vững. Nâng cao trách nhiệm, tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân kết hợp với tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Kiên quyết xử lý nghiêm cán bộ, công chức, viên chức, người lao động có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức để mọi người dân đều được thụ hưởng công bằng, bình đẳng./.
____________________________________________
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 27
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 434
(3) “Nghị quyết về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, ngày 4-12-2023, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-ve-tiep-tuc-phat-huy-truyen-thong-suc-manh-dai-doan-ket-toan-dan-toc-119231204084712285.htm.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 64
(5) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 21 - 22
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 64 - 65
(7) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 27
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 402
(9) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 28
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232
(11) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 24
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 84 - 85
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 170
(14) Phạm Tất Thắng: “Phát huy sức mạnh của nhân dân và khối đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn phát triển đất nước hiện nay”, Tạp chí Dân vận, tháng 10-2023, tr. 23 - 29
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 01/2/2024
Bài liên quan
- Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
- Tính nhân văn của Đề cương về văn hóa Việt Nam - động lực xây dựng, phát triển văn hóa đất nước bền vững trong thời đại Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Đặc điểm, nguyên tắc tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung truyền hình đa nền tảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Cuộc cách mạng 4.0 đang tạo ra sự thay đổi sâu rộng trong ngành truyền hình với sự xuất hiện của truyền hình đa nền tảng. Khác với truyền hình truyền thống, truyền hình đa nền tảng đã và đang định hình lại cách thức tổ chức sản xuất và sáng tạo nội dung thông qua các đặc trưng nổi bật như tính thời sự, khả năng lan truyền thông tin nhanh chóng, tính đa dạng và tương tác cao, quản lý và lưu trữ hiệu quả. Vận hành một mô hình sản xuất truyền hình đa nền tảng cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, trong đó nhấn mạnh đến các nguyên tắc về thông tin chính xác, kết hợp sản xuất nội dung với công nghệ mới, phát triển đa dạng các nền tảng...
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Chiều 31/10, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo sư, Tiến sỹ Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3).
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực không những góp phần đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng mà còn góp phần đảm bảo phúc lợi cho người lao động. Vì thế, trong quá trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực – yếu tố then chốt để Việt Nam đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển toàn diện, nhanh và bền vững. Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của nguồn nhân lực, Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã có những chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và đã đạt được những kết quả tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Song, bên cạnh những thành tựu, vẫn con những hạn chế nhất định, vì vậy, cần xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng yếu tố quyết định thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lợi thế cạnh tranh của tỉnh hiện nay trong thời gian tới.
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp sâu sắc đối với sự phát triển lý luận của Đảng về quyền con người. Những quan điểm của Tổng Bí thư sẽ tiếp tục là nguồn cảm hứng và định hướng quan trọng cho các hoạt động về quyền con người trong thời kỳ mới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Theo thông tin từ Hội đồng chuyên môn bảo vệ sức khỏe cán bộ Trung ương, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sau thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao, bệnh nặng, Đồng chí đã từ trần lúc 13 giờ 38 phút, ngày 19-7-2024, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Hưởng thọ 80 tuổi. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân” của Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Bình luận