Bảo đảm an ninh môi trường để phát triển bền vững kinh tế Việt Nam
Mối quan hệ giữa bảo đảm an ninh môi trường với phát triển bền vững kinh tế
Môi trường là tập hợp các yếu tố tự nhiên (không khí, đất, nước, ánh sáng, núi, sông, hồ, biển, hệ sinh thái, thảm thực vật, cảnh quan thiên nhiên…) và các yếu tố vật chất nhân tạo (khu dân cư, khu sản xuất, di tích lịch sử…). Trong đó, môi trường tự nhiên tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý chí của con người, trong khi môi trường nhân tạo tồn tại phụ thuộc vào ý chí của con người. An ninh môi trường là trạng thái mà hệ thống các yếu tố cấu thành môi trường cân bằng nhằm bảo đảm điều kiện sống và phát triển của con người cũng như các loài sinh vật sống trong đó, nói cách khác chính là bảo vệ môi trường sống của con người. Vì vậy, khi tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra, đa dạng sinh học bị suy giảm thì an ninh môi trường không được bảo đảm.
Phát triển bền vững về kinh tế là sự phát triển kinh tế không dựa trên việc khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, không làm suy giảm sự đa dạng sinh học, không gây ra các sự cố môi trường, không làm gia tăng phát thải khí nhà kính… mà luôn có ý thức tái tạo, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, giữ gìn sự đa dạng sinh học cho các thế hệ mai sau. Phát triển kinh tế bền vững được thể hiện qua chất lượng tăng trưởng được nâng cao, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng hợp lý, tích cực.
Giữa môi trường và phát triển kinh tế luôn có mối quan hệ biện chứng. Trong đó, môi trường là địa bàn và đối tượng của phát triển kinh tế, còn phát triển kinh tế là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường. Để phát triển kinh tế bền vững, tăng trưởng kinh tế phải gắn với bảo vệ, sử dụng hợp lý và hiệu quả tài nguyên môi trường. Thực tiễn cho thấy, môi trường có vai trò nền tảng đối với sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Khi môi trường bị suy thoái sẽ tác động tiêu cực trực tiếp đến sản xuất và đời sống của con người, làm tổn thất đến kinh tế cũng như kéo theo nhiều thiên tai, dịch bệnh, gây nên sự bất ổn xã hội. Vì vậy, sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường hay bảo vệ môi trường để phát triển kinh tế bền vững là cơ sở đầu tiên để bảo đảm sự phát triển bền vững nói chung, phát triển kinh tế nói riêng. Vì vậy, bảo đảm an ninh môi trường nhằm phát triển bền vững về kinh tế là sự chủ động của con người trong việc lựa chọn cách thức sử dụng các nguồn lực vào tăng trưởng kinh tế nhằm bảo vệ được môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, cũng như tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong quá trình phát triển, cần nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế gắn với sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, tái tạo, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tình hình bảo đảm an ninh môi trường nhằm phát triển bền vững về kinh tế ở Việt Nam
Vấn đề bảo đảm an ninh môi trường nhằm phát triển bền vững về kinh tế đã sớm được Đảng, Nhà nước ta quan tâm và cụ thể hóa trong các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật. Biểu hiện rõ nét được thể hiện qua các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng ta. Trong các kỳ đại hội, căn cứ vào điều kiện cụ thể trong và ngoài nước, Đảng ta đã đưa ra quan điểm chỉ đạo chủ động bảo vệ môi trường nhằm phát triển bền vững, trong đó có bền vững về kinh tế. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng (năm 1991), Đảng ta đã đề ra phương hướng: “Tuân thủ nghiêm ngặt việc bảo vệ môi trường, giữ gìn cân bằng sinh thái cho thế hệ mai sau”(1). Đến Đại hội VIII của Đảng (năm 1996), Đảng ta chỉ đạo: “Đánh giá chính xác tài nguyên quốc gia, từ đó đề xuất một chiến lược đúng đắn về khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái. Áp dụng các công nghệ hiện đại trong việc kiểm soát, đánh giá và xử lý tác động môi trường. Ưu tiên công nghệ sạch, tốn ít nguyên, nhiên liệu”(2). Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia... Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên. Hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường ở nông thôn, các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, khu đô thị, làng nghề, các lưu vực sông, không để phát sinh thêm những cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng”(3). Tại Đại hội XIII, Đảng ta đề cập toàn diện, cụ thể và chi tiết hơn về vấn đề bảo vệ môi trường, theo đó cần “quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe của nhân dân là mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường(4).
Từ những quan điểm chỉ đạo trên của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã cụ thể hóa bằng các thể chế, chính sách về bảo đảm an ninh môi trường nhằm phát triển bền vững. Trước hết, Luật Bảo vệ môi trường đã được Quốc hội thông qua ngày 27/12/1993, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện năm 2014 và năm 2020. Theo đó, tại khoản 2, Điều 4, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 nhấn mạnh, bảo vệ môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm, tiên quyết cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Đây là cơ sở pháp lý để các chủ thể trong nền kinh tế tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường trong quá trình thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Cùng với hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường dần được hoàn thiện trong quá trình phát triển kinh tế, các chỉ thị của Bộ Chính trị, nghị định của Chính phủ về môi trường cũng được ban hành, như: Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 25/6/1998, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 15/11/2004, của Bộ Chính trị, “Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 3/6/2013, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, “Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”... Bên cạnh đó, quan điểm bảo vệ môi trường gắn với phát triển bền vững, trong đó có phát triển bền vững về kinh tế cũng được lồng ghép xuyên suốt trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, như: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010; giai đoạn 2011 - 2020; giai đoạn 2021 - 2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2015, giai đoạn 2016 - 2020, giai đoạn 2021 - 2025. Cùng với đó, trên cơ sở 17 mục tiêu phát triển bền vững của thế giới trong giai đoạn 2015 - 2030 được thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên hợp quốc vào tháng 9/2015, ngày 10/5/2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 622/QĐ-TTg, “Về việc ban hành kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững”, xác định 17 mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030, trong đó có tới 4 mục tiêu trực tiếp về bảo vệ môi trường nhằm phát triển bền vững.
Với sự chủ động trong chỉ đạo và thực hiện sự chỉ đạo trên, ở Việt Nam, bảo đảm an ninh môi trường nhằm phát triển bền vững về kinh tế đã đạt được một số kết quả:
Tăng trưởng kinh tế đã bước đầu gắn với sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.
Trong giai đoạn 2011 - 2022, thực hiện chủ trương phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường; không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế; thực hiện tăng trưởng xanh, tiêu dùng xanh và thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng dựa vào sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, hầu hết các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế đều sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. Trong nông nghiệp, nhiều địa phương, doanh nghiệp áp dụng mô hình kinh tế tuần toàn; ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, như đưa giống mới, thâm canh, tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi để gia tăng năng suất, bên cạnh đó, đầu tư kiên cố hoá hệ thống thuỷ nông, nâng cao năng lực tưới tiêu giúp tăng hiệu quả sử dụng đất, nước trong sản xuất nông nghiệp của cả nước, nâng giá trị sản phẩm/ha đất trồng trọt tăng từ 72,2 triệu đồng/ha năm 2011 lên 102,8 triệu đồng/ha năm 2020(5) và 104,8 triệu đồng năm 2022(6), mặt nước nuôi trồng thuỷ sản từ 135,2 triệu đồng/ha năm 2011 lên 237,8 triệu đồng/ha năm 2020(7) và 247,5 triệu đồng năm 2022(8). Trong ngành công, thương, triển khai một cách đồng bộ các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, đầu tư và cải tạo lưới điện, cải thiện hiệu suất sử dụng năng lượng ở các ngành tiêu hao năng lượng lớn. Nhờ đó, hệ số đàn hồi điện/GDP giảm từ mức 1,9 giai đoạn 2011 - 2015 xuống 1,43 giai đoạn 2016 - 2020(9) và xuống mức 0,91, tốt hơn rất nhiều so với mục tiêu đề ra từ 1,24-1,25 giai đoạn 2021 - 2025(10); tỷ lệ tổn thất truyền tải và phân phối điện liên tục giảm, từ 10,15% năm 2010 xuống 6,5% năm 2020; tỷ lệ tiết kiệm năng lượng của Việt Nam đạt 5,65%, tương đương gần 11,3 triệu tấn dầu quy đổi(11). Với hệ số đàn hồi điện/GDP giảm, hiệu suất sử dụng năng lượng giảm cho thấy, ngành công thương bước đầu sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên năng lượng, giảm được lượng phát thải khí nhà kính, góp phần quan trọng vào bảo vệ môi trường.
Việc sử dụng nguồn lực vào tăng trưởng các ngành ngày càng tiết kiệm, hiệu quả góp phần giúp Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn định. Trong giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Việt Nam ở mức 6,2%; giai đoạn 2016 - 2022 đạt 5,51%/năm (do đại dịch COVID-19 xảy ra đã làm suy giảm tốc độ tăng trưởng năm 2020 ở mức 2,87% và năm 2021 là 2,56%). Bình quân tốc độ tăng trưởng cả giai đoạn 2011 - 2022 là 5,78%/năm, đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới giai đoạn này. Với việc thực hiện chủ trương chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, tăng trưởng dựa trên nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, dựa trên đổi mới sáng tạo nên tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn này đã ngày càng dựa nhiều hơn vào tốc độ tăng năng suất yếu tố tổng hợp (TFP). Cụ thể, nếu như giai đoạn 2011 - 2015, tỷ trọng đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế ở mức 32,75% thì đến giai đoạn 2016 - 2020 đạt 46,04%(12); năm 2020 và 2021, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, nên TFP giảm, nhưng có xu hướng phục hồi trở lại. Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng ngày càng hợp lý, giảm tỷ trọng các ngành khai thác tài nguyên, tăng dần các ngành có lợi thế và giá trị gia tăng cao. Sự gia tăng đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP, các ngành có lợi thế và giá trị gia tăng cao cho thấy, Việt Nam ngày càng sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực, trong đó có nguồn lực tài nguyên thiên nhiên vào tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng kinh tế của nước ta đang dần đi vào chiều sâu và ngày càng bền vững.
Tăng trưởng kinh tế đã từng bước gắn với tái tạo tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học.
Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế trong quá trình sản xuất, kinh doanh phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế đã chú trọng đến các biện pháp tái tạo và bảo vệ sự đa dạng sinh học. Ngành nông nghiệp, chú trọng đến các phương thức canh tác vừa tiết kiệm tài nguyên, vừa góp phần tăng nguồn hữu cơ cho đất, qua đó, tái tạo và phục hồi tài nguyên đất, bảo vệ sự đa dạng sinh học, giảm phát thải khí nhà kính, nâng cao hiệu quả sản xuất. Đến nay, sản xuất nông nghiệp ở nhiều địa phương trong toàn quốc đã áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, như mô hình “vườn - ao - chuồng”; mô hình “lúa, tôm”; “lúa, cá”; mô hình “sản xuất phân hữu cơ từ chất thải nông nghiệp”; mô hình “chăn nuôi an toàn sinh học 4F” (Farm-Food-Feed-Ferlitizer, nghĩa là: trồng trọt - thực phẩm - chăn nuôi - phân bón)... Ngoài các mô hình kinh tế tuần hoàn trên, trong nông nghiệp còn ứng dụng và từng bước phát triển mô hình nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ. Việc áp dụng các mô hình canh tác này góp phần vừa tái tạo được tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học, vừa tạo ra sản phẩm sạch, có năng suất cao, có giá trị xuất khẩu, qua đó, bảo đảm an ninh môi trường, nâng cao hiệu quả sản xuất, góp phần nâng cao đời sống vật chất, bảo vệ sức khoẻ cho người dân. Ngành công thương, bên cạnh việc áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất làm giảm tiêu hao nguyên nhiên liệu, đã chú trọng phát triển năng lượng tái tạo, như thuỷ điện, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng địa nhiệt, năng lượng sinh khối. Đến năm 2022, tỷ trọng năng lượng sạch (thủy điện và các nguồn năng lượng tái tạo) chiếm 65,6% tổng công suất của hệ thống, riêng điện gió và mặt trời chiếm 27% tổng công suất nguồn điện(13). Với việc sử dụng các biện pháp trên, ngành công thương cũng ngày càng chú trọng đến việc tái tạo tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm an ninh môi trường, góp phần vào tăng trưởng kinh tế ngày càng bền vững hơn.
Tăng trưởng kinh tế đã gắn với thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thực hiện Quyết định số 2139/QĐ-TTg, ngày 5/12/2011, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu”, các ngành, lĩnh vực kinh tế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh đã có sự điều chỉnh cả về thời gian, kỹ thuật sản xuất nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm tăng trưởng kinh tế của ngành nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung, trong đó tập trung hướng đến sự phát triển bền vững. Ngành nông nghiệp kết hợp với các địa phương hướng dẫn nông dân áp dụng nhiều biện pháp canh tác mới, như chuyển đổi cơ cấu cây, con; chuyển đổi cơ cấu mùa vụ; đưa các giống cây, con thích ứng với biến đổi khí hậu vào sản xuất; hướng dẫn nông dân sản xuất kỹ thuật canh tác mới (VietGAP); “mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm trên đệm lót sinh học”; “mô hình trồng rau sạch trong nhà lưới”; ứng dụng công nghệ AI (trí tuệ nhân tạo), Data Analytics (phân tích dữ liệu), Big Data (dữ liệu lớn) vào cảnh bảo sớm; Chương trình quản lý dịch hại IPM; sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc 4 đúng (đúng lúc, đúng cách, đúng thời gian, đúng liều lượng); mô hình “”trồng lúa giảm phát thải”... Những biện pháp thích ứng trên đã giảm được thiệt hại do biến đổi khí hậu, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm dịch bệnh, nâng cao chất lượng nông sản nên hiệu quả cao hơn hẳn so với trước kia. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp còn chỉ đạo các địa phương trong cả nước xử lý các chất thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp, như đốt rơm rạ, bao bì chứa phân bón, chai lọ đựng chất bảo vệ thực vật; thức ăn dư thừa, phân gia súc, gia cầm, nước rửa chuồng trại... đã góp phần giảm thải sự ô nhiễm môi trường không khí, đất và nước; giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ sức khoẻ người dân. Ngành công thương ngoài các biện pháp, như sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả năng lượng, còn thực hiện chính sách dán nhãn sinh thái/nhãn xanh, nhãn tiết kiệm năng lượng và các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, ngành sản xuất các sản phẩm sinh thái, thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, Bộ Công thương đã triển khai Chiến lược sản xuất sạch hơn, xanh hoá lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững; triển khai Quyết định số 889/QĐ-TTg, ngày 24/6/2020, của Thủ tướng Chính phủ, “Về Chương trình Hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021 - 2030”. Việc thực hiện các chính sách và biện pháp trên của ngành công thương đã góp phần giảm phát thải các-bon, bảo đảm an ninh môi trường trong quá trình tăng trưởng.
Bên cạnh kết quả đạt được nêu trên, việc bảo đảm an ninh môi trường để phát triển bền vững kinh tế ở nước ta vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục.
Một là, tăng trưởng kinh tế chưa sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; đã và đang làm gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm tài nguyên thiên thiên.
Thực tiễn cho thấy, tình trạng thất thoát, lãng phí trong sử dụng năng lượng ở tất cả các ngành, lĩnh vực từ sản xuất công thương, nông nghiệp, giao thông vận tải, hộ gia đình còn cao. Số liệu của Ngân hàng Thế giới cho biết, năm 2019, hiệu quả sử dụng năng lượng của Việt Nam thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực. Cụ thể, chỉ số cường độ năng lượng năm 2019 của Việt Nam là 5,94 thấp hơn mức 6,69 của Trung Quốc nhưng cao hơn mức 4,68 của Malaysia; 3,53 của Indonesia; 3,12 của Philippines(14). Năng lượng tiêu hao cho một đơn vị sản phẩm của Việt Nam năm 2022 cao hơn từ 1,3-1,6 lần so với các nước trong khu vực và cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển(15). Sức ép về môi trường đang đe doạ sự tăng trưởng kinh tế trong dài hạn của Việt Nam. Trong những năm qua, mặc dù mô hình tăng trưởng kinh tế có sự chuyển dần sang chiều sâu, song về cơ bản vẫn là tăng trưởng theo chiều rộng. Việc chưa quyết liệt thay đổi trong thu hút đầu tư, thiếu quy hoạch trong phát triển đô thị đã làm cho ô nhiễm môi trường gia tăng, nhiều tài nguyên bị khai thác cạn kiệt. Tình trạng ô nhiễm môi trường từ nước thải công nghiệp và đô thị, một mặt, dẫn đến những nguy cơ nghiêm trọng về sức khoẻ, mặt khác, tác động rất lớn đến môi trường sinh thái, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất, ô nhiễm không khí. Tại nhiều khu công nghiệp, làng nghề, ô nhiễm môi trường do chất thải công nghiệp, chế biến nông sản đã làm nhiễm độc các nguồn nước, tác động tiêu cực đến các hoạt động kinh tế. Chính việc chưa thực hiện được mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, cùng với mức độ công nghiệp hoá, đô thị hoá ngày càng cao; việc khai thác tài nguyên thiên nhiên ồ ạt, thiếu kiểm soát; công nghệ, thiết bị máy móc lạc hậu, tiêu tốn nhiều nhiên nguyên liệu; hạ tầng thu gom và xử lý chất thải thiếu, không được đầu tư đồng bộ đã dẫn đến ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, gây áp lực lên môi trường ngày càng cao và làm cạn kiệt tài nguyên.
Hai là, tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào sử dụng năng lượng truyền thống, tỷ lệ năng lượng tái tạo còn thấp; tỷ lệ tái chế, tái sử dụng thấp nên lượng phát thải cao.
Đến nay, trong ngành công thương, lĩnh vực phát điện có tới 94% tổng công suất phát điện là sử dụng thủy điện, nhiệt điện khí và nhiệt điện than, còn điện gió và điện mặt trời chỉ đóng góp một phần rất nhỏ. Giai đoạn 2011 - 2020, tốc độ sử dụng năng lượng truyền thống vẫn tăng khá nhanh là 12,9%, trong đó, nhiệt điện than tăng nhanh nhất với tốc độ 18%/năm, thủy điện tăng 9,2%/năm(16); điện sinh khối (điện trấu, điện bã mía, điện gỗ), điện từ rác thải hầu như không đáng kể. Bên cạnh đó, tỷ lệ tái chế, tái sử dụng ở Việt Nam còn thấp. Hằng năm, lượng chất thải rắn từ sản xuất và sinh hoạt ở Việt Nam khoàng 25 triệu tấn, song mới có 30% được xử lý đốt hoặc sản xuất phân hữu cơ, còn 70% chôn lấp trực tiếp. Trong đó, lượng chất thải nhựa và túi nilon chiếm khoảng 8-12%. Trong lĩnh vực vật liệu nhựa, mỗi năm, Việt Nam có khoảng 3,9 triệu tấn được tiêu thụ, song mới chỉ có 1,28 triệu tấn (tương đương khoảng 33%) được thu gom tái chế. Như vậy, còn tới 2,62 triệu tấn (chiếm khoảng 67%) rác thải nhựa không được tái chế. Theo các chuyên gia, riêng lĩnh vực tái chế nhựa, hằng năm, Việt Nam đã làm mất 75% giá trị vật liệu nhựa, tương đương từ 2,2 - 2,9 tỷ USD(17). Tỷ lệ tái chế, tái sử dụng thấp vừa gây lãng phí nguồn lực, vừa làm gia tăng phát thải khí nhà kính và ô nhiễm môi trường.
Ba là, tăng trưởng kinh tế đã làm gia tăng biến đổi khí hậu, làm giảm sự đa dạng sinh học.
Hoạt động sản xuất của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế cùng với quá trình đô thị hóa đã làm gia tăng phát thải khí nhà kính, đẩy nhanh quá trình biến đổi khí hậu ở nước ta. Tình trạng rác thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp sau khi thu gom chưa được xử lý đúng cách và triệt để; tỷ lệ chất thải trong nông nghiệp được thu gom, xử lý theo quy định còn thấp đã làm gia tăng lượng phát thải khí nhà kính, đẩy nhanh quá trình biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, để phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhiều diện tích rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ đã bị chặt bỏ; nhiều diện tích rừng ngập mặn cũng đã bị thu hẹp để mở rộng diện tích nuôi trồng thủy hải sản, làm suy giảm cả diện tích lẫn chất lượng rừng, gia tăng tần suất, quy mô và cường độ thiên tai, như: lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn xảy ra trong những năm qua, làm mất đi cân bằng sinh thái, suy giảm sự đa dạng sinh học vùng ngập nước ven biển và gia tăng phát thải khí nhà kính.
Bên cạnh đó, phần lớn cụm công nghiệp có trình độ công nghệ, thiết bị lạc hậu còn chiếm tỷ lệ cao, chưa quan tâm đến việc bảo vệ môi trường. Tính đến hết năm 2020, cả nước thành lập 968 cụm công nghiệp với trên 30.912ha, trong đó có 730 cụm công nghiệp với khoảng 22.336ha đi vào hoạt động, nhưng chỉ có 141 cụm công nghiệp (19,3%) có hệ thống xử lý nước thải tập trung đi vào hoạt động(18). Vì vậy, còn nhiều “sự cố” “điểm nóng” về môi trường, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Điều này khiến Việt Nam trở thành một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Ô nhiễm môi trường cùng với biến đổi khí hậu sẽ làm suy giảm 5% GDP mỗi năm của nước ta.
Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế chưa nhận thức đầy đủ về bảo đảm an ninh môi trường để phát triển bền vững. Phần lớn doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, chủ trang trại, hộ gia đình chưa có ý thức trong việc áp dụng các cách thức sản xuất bảo vệ môi trường, mà mới chú trọng đạt mục tiêu lợi nhuận. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất không xây dựng các khu xử lý nước thải, rác thải; khai thác và tận diệt tài nguyên; chưa đầu tư đổi mới công nghệ... Những “dòng sông chết”, những vùng đất thoái hóa, nhiễm mặn, đất trống đồi núi trọc, ô nhiễm không khí, nguồn nước ngày càng gia tăng... gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng dài hạn.
Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật, chính sách về bảo vệ môi trường còn bất cập, công cụ quản lý môi trường chưa phát huy hiệu lực, hiệu quả. Bảo vệ môi trường mang tính liên ngành, liên quan đến nhiều lĩnh vực, song Luật Bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay chưa bảo đảm tính tổng thể, chưa thể hiện vai trò là luật khung chi phối hệ thống pháp luật khác. Hiện nay, bảo vệ môi trường được thể hiện ở nhiều luật khác nhau, như Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Tài nguyên, Luật Khoáng sản... Giữa các luật này còn nhiều điểm chưa thống nhất, nhiều khoảng trống chưa được quy định làm ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường; còn thiếu những quy định tạo ra hành lang pháp lý, môi trường thúc đẩy tăng trưởng xanh, tiêu dùng xanh. Hệ thống chính sách, công cụ quản lý nhà nước về môi trường chưa phù hợp và đồng bộ với cơ chế thị trường. Các công cụ quản lý nhà nước về môi trường, như thuế, phí môi trường chưa phát huy vai trò là công cụ điều tiết, hạn chế các hoạt động gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, thúc đẩy tăng trưởng xanh.
Hơn nữa, năng lực giám sát môi trường, cảnh báo khí hậu, thiên tai còn thấp. Công tác giám sát, cảnh báo khí hậu, thiên tai mặc dù được tăng cường, góp phần giảm thiệt hại do biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái song do chưa có sự chủ động phòng ngừa, kiểm tra, giám sát ở những dự án, nguồn thải có nguy cơ ô nhiễm môi tường; ý thức bảo vệ môi trường của các chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế còn thấp; công nghệ giám sát, cảnh báo thiên tai lạc hậu; công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm về môi trường còn bất cập; nạn phá rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, săn bắn động vật quý hiếm; nhập khẩu rác thải công nghiệp còn xảy ra… khiến tình trạng ô nhiễm môi trường gia tăng, giảm hiệu quả tăng trưởng.
Giải pháp nhằm bảo đảm an ninh môi trường để phát triển bền vững kinh tế Việt Nam thời gian tới
Để bảo đảm an ninh môi trường, phát triển bền vững kinh tế ở nước ta trong những năm tới, cần thực hiện một số giải pháp.
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các tổ chức chính trị - xã hội cũng như doanh nghiệp, người dân về bảo đảm an ninh môi trường để phát triển bền vững kinh tế. Đẩy mạnh truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng về an ninh môi trường nhất quán quan điểm không đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế. Ngoài ra, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện đánh giá tác động môi trường trong các dự án đầu tư. Lồng ghép an ninh môi trường trong các chính sách phát triển kinh tế, xã hội.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về bảo vệ môi trường và an ninh môi trường. Trước mắt, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp với các bộ, ngành có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường nhằm thể chế hoá đầy đủ, kịp thời những chủ trương của Đảng, cũng như đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong điều kiện mới, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hội nhập kinh tế và biến đổi khí hậu. Trong quá trình hoàn thiện, chú trọng đưa môi trường, kinh tế, xã hội trở thành ba trụ cột của phát triển; có tác động qua lại lẫn nhau. Bên cạnh đó, rà soát, bổ sung hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam phù hợp với khu vực và quốc tế, đồng thời, xây dựng lộ trình áp dụng hàng rào kỹ thuật ngăn ngừa nguy cơ ô nhiễm môi trường, dịch chuyển công nghệ lạc hậu vào nước ta. Thành lập cơ quan chuyên trách bảo đảm an ninh môi trường quốc gia và tăng cường năng lực của cơ quan này. Xem xét, kiện toàn bộ máy và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến các địa phương để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong điều kiện mới.
Thứ ba, xây dựng năng lực giám sát, cảnh báo khí hậu, thiên tai. Tăng cường công tác giám sát, tuân thủ và thưc thi Luật Bảo vệ môi trường. Chủ động phòng ngừa, giám sát, kiểm soát các dự án, nguồn thải có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Ứng dụng các công nghệ hiện đại, công nghệ 4.0 nhằm nâng cao năng lực dự báo khí tượng, thuỷ văn với giám sát, cảnh báo khí hậu, qua đó, giảm thiệt hại do thiên tai gây ra. Cần rà soát, kiểm soát và giám sát chặt chẽ các dự án, các cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm các dự án, các cơ sở sản xuất vận hành an toàn về môi trường, không để xảy ra sự cố. Kiện toàn và vận hành hiệu quả đường dây nóng về ô nhiễm môi trường từ Trung ương đến địa phương để giải quyết những vấn đề ô nhiễm ngay từ địa bàn, cơ sở. Ngoài ra, lồng ghép kịch bản biến đổi khí hậu trong các chương trình, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương và cả nước. Tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường. Ngăn chặn nạn phá rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, săn bắt động vật, nguồn lợi thuỷ sản. Kiên quyết cấm nhập khẩu rác thải công nghiệp; cấm sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, bảo quản thực phẩm; xử lý nghiêm các trường hợp cố tình xả thải chưa qua xử lý ra môi trường.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời, thực hiện tăng trưởng xanh, tăng trưởng kinh tế tuần hoàn, ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, kinh doanh và coi đây là yếu tố trọng yếu trong sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu. Tiếp tục nhất quán chủ trương coi khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, động lực then chốt; thực hiện chuyển đổi số quốc gia; ứng dụng công nghệ số vào phát triển các ngành, lĩnh vực; phát triển một số ngành khoa học mũi nhọn, phát triển thị trường khoa học - công nghệ. Khuyến khích các chủ thể kinh tế đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, kinh doanh thông qua các chính sách hỗ trợ vốn vay, hỗ trợ mặt bằng, hỗ trợ đào tạo nâng cao trình độ cho chủ doanh nghiệp, người lao động ở các doanh nghiệp, hộ gia đình, qua đó, nâng cao năng lực, nghiên cứu cũng như chuyển giao, tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất./.
_____________________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 14.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 105.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.143 - 144.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, T. I, tr. 116 - 117.
(5), (7) Tổng cục Thống kê (2021), Niên Giám Thống kê 2020, Nxb. Thống Kê, Hà Nội, tr. 295.
(6), (8) Dương Mạnh Hùng, “Nông nghiệp Việt Nam năm 2022 - Những điểm sáng nổi bật”, Tạp chí Con số và sự kiện, ngày 30/12/2022. https://consosukien.vn/nhung-diem-sang-noi-bat-cua-nganh-nong-nghiep-viet-nam-nam-2022.htm.
(9), (11) Bộ Công Thương, “Những kết quả nổi bật của ngành Công Thương thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011 - 2020”, Trang tin Công đoàn Công Thương Việt Nam, ngày 2/1/2022, https://congdoancongthuong.org.vn/tin-tuc/t6075/nhung-ket-qua-noi-bat-cua-nganh-cong-thuong-thuc-hien-chien-luoc-quoc-gia-ve-tang-truong-xanh-giai-doan-2011-2020v.html.
(10) Thanh Hương, “Hệ số đàn hồi điện có xu hướng ngày càng giảm”, Báo Đầu tư, ngày 28/11/2022, https://baodautu.vn/he-so-dan-hoi-dien-co-xu-huong-ngay-cang-giam-d178662.html.
(12) Tổng cục Thống kê (2021), Năng suất lao động Việt Nam giai đạn 2011-2020: Thực trạng và giải pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr. 28.
(13) Lê Phạm, “Việt Nam đẫn đầu ASEAN về quy mô, tỉ lệ các nguồn điện gió, điện mặt trời”, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, ngày 30/8/2022, https://baochinhphu.vn/viet-nam-dan-dau-asean-ve-quy-mo-ti-le-cac-nguon-dien-gio-dien-mat-troi-102220830 113046348.htm.
(14) Châu Anh, “Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả hướng đến sự phát triển bền vững năng lượng Việt Nam”, Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương (MOIT), ngày 15/10/2021, https://moit.gov.vn/tin-tuc/su-dung-nang-luong-tiet-kiem-va-hieu-qua/su-dung-nang-luong-tiet-kiem-va-hieu-qua-huong-den-su-phat-trien-ben-vung-nang-luong-viet-nam.html.
(14) Văn Nam, “Tiêu hao năng lượng ngành công nghiệp Việt Nam cao gấp 1,6 lần khu vực”, Thời báo Tài chính, ngày 17/9/2022, https://thoibaotaichinhvietnam.vn/tieu-hao-nang-luong-nganh-cong-nghiep-viet-nam-cao-gap-16-lan-khu-vuc-112906.html.
(16) Minh Châu, “Viện năng lượng: Năng lượng tái tạo có thể cắt giảm trong 5 năm tới”, Trang tin Hội Dầu khí Việt Nam, ngày 31/5/2021, https://petrotimes.vn/vien-nang-luong-nang-luong-tai-tao-co-the-cat-giam-trong-5-nam-toi-612625.html?rand Time=1622460146.
(17) PV, “Việt Nam lãng phí gần 3 tỷ USD mỗi năm vì không tái chế rác thải nhựa”, Báo điện tử VTV News, ngày 30/9/2021, https://vtv.vn/kinh-te/khong-tai-che-rac-thai-nhua-viet-nam-lang-phi-gan-3-ty-usd-moi-nam-202109300846160 75.htm.
(18) Hương Loan, “Cả nước chỉ có 19,3% cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải”, Tạp chí điện tử VnEconomy, ngày 28/4/2021, https://vneconomy.vn/ca-nuoc-chi-co-19-3-cum-cong-nghiep-co-he-thong-xu-ly-nuoc-thai.htm.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 10/10/2023
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Bài viết nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội đối với hoạt động báo chí hiện nay, tập trung vào sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, phân phối tin tức và cấu trúc nội dung báo chí. Truyền thông xã hội đã trở thành một nguồn tin phong phú, đa chiều và nhanh chóng, làm thay đổi đáng kể cách thức thu thập và truyền tải thông tin. Tuy nhiên, tính xác thực của nguồn tin mạng xã hội vẫn là một thách thức, đòi hỏi báo chí phải chú trọng vào việc kiểm chứng và phản hồi thông tin một cách chính xác. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất báo chí cần phát triển nội dung chất lượng cao, tăng cường kỹ năng công nghệ số của phóng viên và xây dựng các nền tảng số riêng để giảm sự phụ thuộc vào truyền thông xã hội, đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy trong kỷ nguyên số.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận