Cải cách hành chính góp phần xây dựng nhà trường quân đội vững mạnh toàn diện, mẫu mực, tiêu biểu
![16.12.12.2023](https://media.lyluanchinhtrivatruyenthong.vn//uploads/news/2023/12/13/170243185616-12-12-2023.jpg)
1. Cải cách hành chính ở các nhà trường quân đội hiện nay
Cải cách hành chính (CCHC) ở nhà trường quân đội (NTQĐ) là sự thay đổi có kế hoạch hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực quân sự nhằm hoàn thiện hệ thống thể chế, tổ chức và hoạt động quản lý, chỉ huy, điều hành việc chấp hành pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định của Quân đội, đáp ứng yêu cầu xây dựng các NTQĐ vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”, hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học và các nhiệm vụ khác được giao.
CCHC ở các NTQĐ là quá trình tạo ra những thay đổi, tiến bộ trong xây dựng và hoàn thiện thể chế, tổ chức bộ máy; xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên, học viên, nhân viên, chiến sĩ có đủ phẩm chất, năng lực; bảo đảm tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành thông suốt, không chồng chéo của các cơ quan, khoa, đơn vị trong các NTQĐ.
CCHC ở các NTQĐ có nội dung toàn diện, bao gồm việc cải cách thủ tục, bộ máy hành chính; cải cách tài chính công; ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết các công việc hành chính, chuyên môn, nghiệp vụ, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động chỉ đạo, điều hành và xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên, học viên, chiến sĩ. Trọng tâm là cải cách quy trình xây dựng và thông qua các văn bản quy phạm nội bộ; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung những quy định, quy chế, bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch, công bằng; rà soát, loại bỏ những quy định, quy chế không còn phù hợp, chồng chéo, trùng lặp hoặc gây khó khăn trong triển khai; quản lý chặt chẽ biên chế, rà soát, bổ sung, sửa đổi, cập nhật cơ sở dữ liệu dùng chung về sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, phục vụ cho công tác quản lý, điều hành hoạt động giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học ở nhà trường.
CCHC ở các NTQĐ là khâu đột phá nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học tại các nhà trường; góp phần thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo đảm cho công tác quản lý, chỉ huy, điều hành hoạt động ở các NTQĐ đồng bộ, thống nhất, khả thi, hiệu quả; xây dựng tổ chức bộ máy trong các NTQĐ tinh, gọn, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ; tạo môi trường, điều kiện thuận lợi, giúp tiết giảm thời gian, ngăn ngừa tiêu cực, lãng phí, nâng cao chất lượng hoạt động. Đồng thời, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên của các NTQĐ đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Những năm qua, quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Quân ủy Trung ương, kế hoạch, hướng dẫn của Ban Chỉ đạo CCHC và xây dựng Chính phủ điện tử của Bộ Quốc phòng, các NTQĐ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng kế hoạch CCHC, triển khai thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc, đạt được những kết quả quan trọng.
Bộ máy tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, khoa, đơn vị ở các NTQĐ được điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, chỉ huy, điều hành của hệ thống lãnh đạo, chỉ huy các cấp. Thủ tục hành chính ở các NTQĐ được sửa đổi, bổ sung, cơ bản bảo đảm tính pháp lý, minh bạch, chặt chẽ, công bằng, đơn giản hóa, góp phần tiết kiệm thời gian, chi phí, mang lại hiệu quả cao trong quản lý, chỉ huy, điều hành; “đã chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thủ tục hành chính, quy trình giải quyết công việc gắn với duy trì áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2015 bảo đảm công khai, minh bạch, dễ thực hiện và từng bước đơn giản hóa”(1).
Các NTQĐ đã quan tâm đầu tư mua sắm trang thiết bị, hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin, mạng internet, đường truyền quân sự tốc độ cao; hệ thống mô phỏng huấn luyện; các phòng học trực tuyến, trung tâm điều hành huấn luyện thông minh, kết nối liên thông trong nội bộ và toàn quân; hệ thống kiểm soát, an ninh chặt chẽ, bảo đảm thuận tiện cho công tác quản lý và có tính bảo mật cao. “Sử dụng hiệu quả hệ thống mạng nội bộ, mạng truyền dữ liệu quân sự, thư điện tử quân sự phục vụ công việc. Hệ thống phần mềm quản lý văn bản, hồ sơ công việc được các cơ quan, đơn vị triển khai áp dụng và vận hành đạt kết quả tốt”(2).
Tuy nhiên, CCHC ở các NTQĐ vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Tại một số cơ quan, đơn vị, cán bộ chủ trì chưa phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trong nghiên cứu, tham mưu đề xuất, trong quản lý, điều hành, kiểm tra thực hiện các nội dung CCHC, “tổ chức thực hiện cải cách hành chính có thời điểm chưa thực sự quyết liệt; bố trí nguồn lực cho cải cách hành chính còn hạn chế; công tác kiểm tra, giám sát ở một số cơ quan, đơn vị chưa được thực hiện thường xuyên”(3). Trình tự, thủ tục giải quyết công việc liên quan đến một số ngành, lĩnh vực chưa thực sự khoa học, rõ ràng, chưa chuẩn hóa, tối ưu hóa; “việc kiểm soát thủ tục hành chính đối với một số văn bản quy phạm nội bộ có nội dung chưa chặt chẽ. Niêm yết công khai thủ tục hành chính sau khi tiếp nhận có nội dung chưa kịp thời”(4).
Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các cơ quan, khoa, đơn vị; chức trách, nhiệm vụ của chỉ huy các cấp vẫn còn chồng chéo, việc phân cấp, phân quyền, quy trách nhiệm có nơi chưa cụ thể, rõ ràng. Phương pháp làm việc của một số cán bộ, nhân viên chưa khoa học, thiếu chủ động, nhất là trong những công việc có tính phức tạp, yêu cầu phải trao đổi, phối hợp giữa nhiều cơ quan, đơn vị. “Hệ thống cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin có mặt còn hạn chế, việc chuyển văn bản qua mạng nội bộ còn ít”(5), năng lực khai thác, sử dụng công nghệ thông tin của một số cán bộ, nhân viên hạn chế.
Thực trạng trên và xuất phát từ yêu cầu CCHC ở các NTQĐ hiện nay đang đặt ra một số vấn đề cần quan tâm nhận thức rõ và giải quyết:
Một là, nhận thức của các chủ thể, lực lượng tham gia CCHC ở các NTQĐ cơ bản tốt, song quyết tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện CCHC chưa cao, chưa quyết liệt, thiếu đồng bộ. Chủ trương, biện pháp lãnh đạo tương đối toàn diện, đúng đắn nhưng tổ chức thực hiện chưa thực sự chặt chẽ, bài bản, nhất là khâu xây dựng, triển khai thực hiện kế hoạch CCHC của một số cơ quan chức năng. Đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp chưa quyết liệt trong triển khai thực hiện các nội dung CCHC cụ thể; vẫn còn tư duy, cách nghĩ, cách làm cũ, rập khuôn, máy móc, mệnh lệnh hành chính, chưa dám đổi mới, đột phá, sáng tạo. “Một số cán bộ có tâm lý ngại thay đổi, chưa sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết công việc”(6). Đây là vấn đề đặt ra đối với các chủ thể, lực lượng trong CCHC ở các NTQĐ, đòi hỏi sự đổi mới về tư duy, phương pháp, phong cách làm việc theo hướng tích cực, chủ động dám nghĩ; dám làm; dám tham mưu đề xuất; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động quyết liệt vì lợi ích chung.
Hai là, tổ chức bộ máy hành chính ở các NTQĐ chưa thực sự tinh, gọn, phù hợp, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao. Quy trình, phương thức quản lý, chỉ huy, điều hành chưa được tối ưu hóa; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan, ban, bộ phận công tác còn chồng chéo; hiệu suất xử lý công việc chưa cao, chưa chuyên nghiệp. Một số cơ quan, khoa, đơn vị còn hiện tượng thừa hoặc thiếu cục bộ cán bộ, giảng viên, nhân viên; việc bố trí, sắp xếp công việc trái ngành nghề đào tạo vẫn xảy ra. Có hiện tượng quân số dôi dư ở một số cơ quan, đơn vị so với biên chế, nhưng lại chưa tinh, chưa mạnh dẫn đến chất lượng, hiệu quả công việc hạn chế. Thực tế này đặt ra vấn đề phải tiếp tục rà soát, đánh giá, rút kinh nghiệm về cải cách tổ chức, bộ máy để đề nghị cấp có thẩm quyền điều chỉnh sát thực tiễn từng nhà trường, bảo đảm tinh, gọn, mạnh, chuyên nghiệp, thông minh, hiện đại.
Ba là, năng lực tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện CCHC của lực lượng chuyên trách, nòng cốt chưa theo kịp sự phát triển; cơ chế phối hợp giữa các lực lượng chưa đồng bộ, chặt chẽ. Năng lực quán triệt, cụ thể hóa chủ trương, biện pháp lãnh đạo, xây dựng kế hoạch, chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện CCHC trên thực tế của lực lượng này còn nhiều hạn chế. Cơ chế, quy chế phối hợp giữa các lực lượng chuyên trách, nòng cốt trong tham gia CCHC thiếu đồng bộ, chưa phân định rõ vai trò, trách nhiệm, nhiệm vụ cụ thể của các lực lượng. Do đó, để nâng cao chất lượng, hiệu quả CCHC ở các NTQĐ hiện nay, đòi hỏi cần tập trung xây dựng lực lượng chuyên trách, nòng cốt có phẩm chất, năng lực tốt, đáp ứng yêu nhiệm vụ được giao.
Bốn là, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật chưa đầy đủ, đồng bộ, tính bảo mật chưa cao; đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu CCHC. Hiện nay, các NTQĐ đang sử dụng song hành mạng internet và đường truyền dữ liệu quân sự, mạng nội bộ, dễ dẫn đến hiện tượng kết nối mạng Internet vào hệ thống máy tính quân sự. Số lượng máy tính quân sự của các NTQĐ đầy đủ, song đường truyền, cổng kết nối chưa đáp ứng yêu cầu; tỷ lệ máy tính quân sự kết nối mạng truyền dữ liệu quân sự còn thấp. Tỷ lệ cán bộ, giảng viên, nhân viên sử dụng địa chỉ email quân sự, thiết bị lưu trữ tài liệu an toàn còn ít. Hệ thống phần mềm phát hiện độ trùng lặp, hiện tượng sao chép tài liệu, văn bản, nhất là trong đào tạo sau đại học, nghiên cứu khoa học chưa theo kịp sự phát triển của công nghệ hiện đại. Việc mã hóa, số hóa dữ liệu chậm, chưa thống nhất; hệ thống các phần mềm phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và quản lý chưa đồng bộ, khó sử dụng, chưa liên thông. Trình độ sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý, dạy - học và nghiên cứu khoa học của nhiều cán bộ, giảng viên, nhân viên và học viên còn hạn chế. Phương pháp, tác phong làm việc của cán bộ, giảng viên, nhân viên thiếu chuyên nghiệp, chưa thích ứng với sự phát triển của công nghệ và yêu cầu làm việc trên môi trường mạng. Đây là những vấn đề đặt ra cần được quan tâm giải quyết nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả CCHC ở các NTQĐ trong thời gian tới.
2. Giải pháp nâng cao chất lượng cải cách hành chính ở các NTQĐ
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, Đảng, Nhà nước đang lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh CCHC, trọng tâm là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức với ba trụ cột chính: tổ chức bộ máy; công vụ, công chức; hành chính điện tử và chuyển đổi số. Sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc tiếp tục đặt ra cho Quân đội những nhiệm vụ rất nặng nề và yêu cầu mới mạnh mẽ hơn trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Quán triệt, thực hiện quan điểm “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”(7) và quan điểm chỉ đạo: Tổ chức, sắp xếp hệ thống NTQĐ tinh, gọn, mạnh, chuyên sâu, “xây dựng các học viện, nhà trường quân đội thông minh, hiện đại, chất lượng cao, theo mô hình trường đại học nghiên cứu…; đẩy mạnh CCHC để nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục và quản trị nhà trường”(8), cần tiến hành đồng bộ những giải pháp cơ bản sau:
Một là, tăng cường công tác giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng, nhất là cán bộ chủ trì các cấp đối với nhiệm vụ CCHC ở các NTQĐ. Các tổ chức, lực lượng, nhất là cấp ủy, chỉ huy các cấp ở nhà trường cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch và các văn bản hướng dẫn của cấp trên về công tác CCHC; cụ thể hóa các mục tiêu, yêu cầu của công tác CCHC trong Đề án CCHC của Bộ Quốc phòng giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp theo. Tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quán triệt nhiệm vụ; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp đối với nhiệm vụ CCHC; đổi mới nội dung, linh hoạt, sáng tạo về phương pháp, hình thức phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của từng nhà trường, từng cơ quan, đơn vị.
Hai là, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì, cán bộ chuyên trách các cấp ở các NTQĐ. Tập trung thực hiện tốt việc cải cách tổ chức bộ máy hành chính theo đúng biểu biên chế đã quy định. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, khoa, đơn vị; thực hiện điều chỉnh tổ chức lực lượng và sắp xếp các cơ quan, khoa, đơn vị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu xây dựng các nhà trường, yêu cầu nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học trong tình hình mới. Thường xuyên kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của các ban chỉ đạo CCHC. Hoàn thiện bộ máy cơ quan tham mưu, cơ quan chỉ đạo, hướng dẫn; cơ chế điều hành, giải quyết công việc ở các cấp, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, đồng bộ và tính khả thi cao.
Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác CCHC có số lượng hợp lý và đủ năng lực tham mưu, đề xuất, hướng dẫn tổ chức thực hiện có hiệu quả. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt việc chuẩn hóa cán bộ, giảng viên, nhân viên theo quy định.
Ba là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học. Căn cứ vào thực tế nhiệm vụ của từng nhà trường để đề xuất đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhân lực trong quản lý, điều hành hoạt động giáo dục, đào tạo, giảng dạy và học tập, nghiên cứu; có quy chế và tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên, học viên tiếp cận, chọn lọc thông tin trên internet phục vụ cho công tác chuyên môn. “Tập trung đầu tư xây dựng một số học viện, nhà trường theo mô hình “Nhà trường thông minh, tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư””(9).
Nghiên cứu, đề xuất đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa công tác hành chính, nhất là trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động giáo dục, đào tạo. Quán triệt, triển khai thực hiện chủ trương của Chính phủ về “Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa”(10).
Rà soát các hệ thống chương trình quản lý hiện có; nâng cấp, mở rộng, phổ cập và nâng cao chất lượng, hiệu quả vận hành các phần mềm về quản lý cán bộ, đảng viên; thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội; phần mềm công tác bảo vệ an ninh Quân đội; thúc đẩy dịch vụ công trực tuyến một số thủ tục hành chính, nhất là trong công tác tuyển sinh quân sự.
Bốn là, căn cứ vào đặc điểm, nhiệm vụ của từng nhà trường, xác định rõ phạm vi, nội dung CCHC phù hợp. Xác định mục tiêu CCHC mang tính định lượng với mức độ phù hợp, thiết thực để bảo đảm tính khả thi. Tổ chức thực hiện chương trình CCHC gắn với tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng nhà trường là giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học. Thường xuyên làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá quá trình triển khai thực hiện công tác CCHC ở các NTQĐ. Coi trọng thí điểm, tổng kết, nhân rộng những mô hình, sáng kiến trong cải cách hành chính. Chú trọng việc đánh giá, biểu dương những cơ quan, đơn vị, cá nhân thực hiện tốt và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm./.
___________________________________________________
(1) Báo cáo số 5697/BC-HV ngày 15/12/2022 của Học viện Kỹ thuật quân sự về Kết quả công tác cải cách hành chính và Báo cáo Kiểm soát thủ tục hành chính, tr.4.
(2)Báo cáo số 1275/BC-HV ngày 08/5/2020 của Học viện Chính trị vềTổng kết công tác cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2020, phương hướng, nhiệm vụ công tác cải cách hành chính giai đoạn 2021 - 2030, tr.7.
(3) Báo cáo số 3856/BC-HV ngày 03/12/2020 của Học viện Chính trị về kết quả công tác CCHC và kiểm soát thủ tục hành chính năm 2021, tr.6.
(4) Báo cáo số 2218/BC-LQ, ngày 17/5/2020 của Trường Sĩ quan Lục quân 1 về Tổng kết công tác cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ cải cách hành chính giai đoạn 2021 - 2030, tr.7.
(5) Báo cáo số 6553/BC-LQ ngày 08/12/2021 của Trường Sĩ quan Lục quân 1 về kết quả công tác cải cách hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính năm 2021; phương hướng, nhiệm vụ năm 2022, tr.4.
(6) Báo cáo số 2524/BC-BQP ngày 16/7/2020 của Bộ Quốc phòng về Tổng kết công tác cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2020; phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030, tr.9.
(7) ĐCSVN (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H., T.1, tr.136.
(8) Nghị quyết số 1657-NQ/QUTW, ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội trong tình hình mới, tr.7.
(9) Tổng cục Chính trị (2020), Tài liệu nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025, Nxb. Quân đội nhân dân, H., tr.56, 59.
(10) Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của Chính phủ, ban hành kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 30/6/2020, tr.15.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 11/12/2023
Bài liên quan
- Vận dụng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay
- Hoạt động đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới
- Công tác tư tưởng với nhiệm vụ khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
- Con người trong phát triển bền vững
- Tác động của tình hình quốc tế và khu vực đến công tác tuyên giáo hiện nay
Xem nhiều
-
1
Báo chí Việt Nam trước yêu cầu, nhiệm vụ và thử thách mới
-
2
Vinh danh 122 tác phẩm xuất sắc nhất tại Lễ trao Giải Báo chí Quốc gia lần thứ 18 năm 2023
-
3
Mạch Nguồn số 53: TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG CẢ CUỘC ĐỜI VÌ NƯỚC, VÌ DÂN
-
4
Viết cho ai, một nội dung cơ bản trong tư tưởng báo chí Hồ Chí Minh
-
5
Mạch Nguồn số 50: GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC - GIÁ TRỊ CỦA YÊU THƯƠNG
-
6
Dấu ấn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong công tác tư tưởng của Đảng
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Mạch Nguồn số 53: TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG CẢ CUỘC ĐỜI VÌ NƯỚC, VÌ DÂN
13 giờ 38 phút ngày 19 tháng 7 năm 2024, một trái tim lớn đã ngừng đập. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, người lãnh đạo đầy trí tuệ và bản lĩnh, một tấm gương đạo đức mẫu mực, đã mãi mãi rời xa, để lại niềm thương tiếc trong lòng mỗi người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Trong suốt hơn nửa thế kỷ hoạt động cách mạng, đồng chí đã không ngừng nỗ lực, bền bỉ theo con đường mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã chọn. Đồng chí là biểu tượng của những đức tính cao quý: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư – những phẩm chất của người cộng sản chân chính, một trụ cột vững chắc cho công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại những bài học quý báu, những nguyên tắc vàng trong công tác phòng chống tham nhũng, củng cố Đảng và nâng cao vị thế của đất nước. Ban Biên tập trân trọng giới thiệu Mạch Nguồn số đặc biệt để tưởng nhớ và tri ân nhà lãnh đạo tài ba, chiến sĩ cộng sản chân chính - TBT Nguyễn Phú Trọng, cả cuộc đời vì nước, vì dân!
Vận dụng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay
Vận dụng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay
Nhận thức đúng và vận dụng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng” là cụ thể hóa quan điểm dựa vào dân để xây dựng Đảng thành các chương trình hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và toàn bộ hệ thống chính trị nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đại hội Đảng. Đây là vấn đề mấu chốt để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng.
Hoạt động đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới
Hoạt động đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới
Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Triển khai đối ngoại của nước ta trong thời gian qua được tiến hành toàn diện với các chủ thể, đối tượng và các địa bàn, trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ, quốc phòng, an ninh, v.v. đạt tầm khu vực và vươn tầm quốc tế, giúp thúc đẩy hiệu quả lợi ích quốc gia, dân tộc.
Công tác tư tưởng với nhiệm vụ khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Công tác tư tưởng với nhiệm vụ khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Mùa Xuân năm 2021, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII lần đầu tiên xác định mục tiêu khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc (1). Theo đó, khát vọng như là một yếu tố tiềm tàng, cần khai phá và gia tăng sức mạnh, làm cho nó trở thành nguồn lực và động lực to lớn thúc đẩy đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đi đến mục tiêu cuối cùng. Để khơi dậy khát vọng lớn lao đó, công tác tư tưởng đóng vai trò quyết định trong việc xác lập nội dung, trang bị nhận thức, củng cố niềm tin và cổ vũ hành động cách mạng của toàn dân tộc trong suốt quá trình hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng.
Con người trong phát triển bền vững
Con người trong phát triển bền vững
Nhân loại đang đứng trước nhiều vấn đề phức tạp cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề môi trường, vì sự phát triển bền vững. Tuy nhiên, nhận thức và cách giải quyết của mỗi chủ thể liên quan đến vấn đề này cũng còn có những khác nhau, nên hiệu quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống của thế hệ hiện tại mà còn có nguy cơ ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai, do vậy rất cần có nhận thức sâu sắc và hành động thống nhất, hiệu quả.
Bình luận