Cơ sở đạo lý, pháp lý cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam và điều kiện đảm bảo giữ vững vai trò duy nhất cầm quyền của Đảng
1. Cơ sở đạo lý và pháp lý cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
Vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam xuất phát từ cả cơ sở đạo lý và cơ sở pháp lý của nó. Về mặt đạo lý, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất đã tập hợp, lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành thành công cuộc Cách mạng vĩ đại Tháng Tám năm 1945 để lật đổ chế độ phong kiến, xác lập nền cộng hòa đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á, sau đó lại lãnh đạo nhân dân Việt Nam kiên cường tiến hành các cuộc kháng chiến thần thánh chống lại hai kẻ thù ngoại bang là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Khi đất nước đã hòa bình, độc lập, Đảng lại kiên định và sáng tạo khi lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, cho đến nay đã đi được hơn 30 năm, làm nên những thành tựu có tính bước ngoặt đưa uy tín và vị thế của Việt Nam ngày càng cao trong quan hệ khu vực, quốc tế cả về kinh tế, chính trị văn hóa, xã hội. Mặc dù trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm cách mạng, đã có những lúc Đảng không tránh khỏi những sai lầm nhưng điều căn bản là Đảng đã kịp thời nhận ra những sai lầm, dám đối mặt và sửa chữa khắc phục để lấy lại niềm tin của nhân dân vào Đảng. Một Đảng đã gắn bó và có đóng góp to lớn như thế với nhân dân và dân tộc, không dễ gì người dân Việt Nam với truyền thống văn hóa của mình có thể từ bỏ để theo một chính đảng khác.
Về mặt pháp lý, vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản đã được đề cập ở những mức độ khác nhau trong các bản Hiến pháp của nước ta. Từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, đã có năm bản Hiến pháp được ban hành, đó là Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013. Mỗi bản Hiến pháp ra đời đáp ứng yêu cầu của một giai đoạn cách mạng của đất nước với sự lãnh đạo của Đảng ta nhưng điều không thay đổi trong mỗi bản Hiến pháp đều có đề cập hoặc dành một điều quy định rất rõ về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hiến pháp đầu tiên năm 1946 mặc dù không có quy định nào về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng vai trò của Đảng, của Hồ Chí Minh và uy tín của bản thân Người vẫn luôn được khẳng định bằng việc thông qua bản Hiến pháp lịch sử năm 1946 và những việc làm cụ thể khác. Trong giai đoạn này, với tài năng của mình, Hồ Chí Minh đã tập hợp được đội ngũ đông đảo các trí thức vào công cuộc giải phóng và xây dựng đất nước, nhất là các nhà luật học, sử học.
Hiến pháp năm 1959 là bản Hiến pháp mang nhiều dấu ấn của việc tổ chức nhà nước XHCN. Ở bản Hiến pháp này, chưa có một điều riêng hiến định sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, khác với Hiến pháp năm 1946, vai trò của Đảng đã được khẳng định rõ trong Lời nói đầu. Hiến pháp đã long trọng ghi nhận: “Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Lao động Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tiến lên một giai đoạn mới, cuộc đấu tranh bền bỉ đầy gian khổ và hy sinh dũng cảm của nhân dân ta chống ách thống trị của đế quốc và phong kiến đã giành được thắng lợi vĩ đại…”. Sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục được tái khẳng định trong đoạn kết của Lời nói đầu: “Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân ta đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhất định sẽ giành được thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà” (Điều 4).
Hiến pháp năm 1980 với nhiệm vụ “thể chế hóa đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên CNXH trong phạm vi cả nước” (Lời nói đầu). Khác với hai bản Hiến pháp trước đó, đến Hiến pháp năm 1980, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được hiến định cụ thể bằng một điều của Hiến pháp. Điều 4 viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội, là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”. Đây chính là sự ghi nhận của nhân dân đối với quá trình đấu tranh oanh liệt và vẻ vang của Đảng vì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, mang lại đời sống tốt đẹp cho nhân dân.
Điều 4 Hiến pháp 1992 đã có những bổ sung quan trọng, đầy đủ, làm rõ và sâu sắc hơn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Quy định của Hiến pháp năm 2013 là kế thừa quy định tại Điều 4 Hiến pháp 1992, đồng thời bổ sung quy định làm rõ bản chất của Đảng theo tinh thần mới của Cương lĩnh. Chính do bản chất và nền tảng tư tưởng đó nên nhân dân mới thừa nhận vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng và được tiếp tục ghi nhận vào Hiến pháp năm 2013.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng duy nhất cầm quyền, đó là tất yếu khách quan của lịch sử, là sứ mệnh nặng nề của Đảng được nhân dân giao phó. Điều đó chứng tỏ sức mạnh và uy tín của Đảng, tạo ra những điều kiện mới, những phương tiện mới, công cụ mới để Đảng thực hiện mục tiêu, lý tưởng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, mọi vấn đề từ cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược đến chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng đều có thể thảo luận, tranh luận rộng rãi trong Đảng và lấy ý kiến nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác là phấn đấu cho lợi ích của dân tộc. Là một Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng phải lo từ việc lớn đến việc nhỏ, đến cả tương cà, mắm, muối cho dân, nếu dân đói, dân rét, dân dốt thì không chỉ Chính phủ có lỗi mà Đảng cũng có lỗi.
Tuy nhiên, mặt trái của tình trạng một Đảng độc tôn cầm quyền là dễ chủ quan, tự mãn, kiêu ngạo, đặc quyền đặc lợi, quan liêu, xa rời nhân dân… Bệnh quan liêu trong quản lý nhà nước, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân với quan liêu trong nội bộ Đảng gắn liền với nhau, trên thực tế là một. Đã quan liêu, mất dân chủ ngay trong nội bộ đội tiên phong cách mạng thì khó có thể dân chủ với nhân dân. Đây chính là nguy cơ thoái hóa, biến chất lớn nhất của Đảng cầm quyền, nhất là những người nắm quyền lực.
Ngoài ra, việc phải nhận thức lại để làm rõ và đúng hơn quan hệ giữa Đảng với Nhà nước cũng được coi là một trong những yêu cầu và nhiệm vụ quan trọng trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền. Thiếu vắng cơ chế cạnh tranh như trong mô hình đa đảng, đòi hỏi Đảng phải chú trọng công tác kiểm tra, giám sát trong nội bộ Đảng cũng như bổ sung thêm các kênh giám sát, phản biện từ phía xã hội để Đảng luôn phát triển và xứng đáng đảm nhận trọng trách được lịch sử và nhân dân giao phó.
2. Những điều kiện đảm bảo giữ vững vai trò duy nhất cầm quyền của Đảng
Thứ nhất, Đảng phải là bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn “Đảng không phải để thăng quan, tiến chức, để phát tài. Vào Đảng là để phục vụ nhân dân… đảng viên phải trở thành người con hiếu thảo của Tổ quốc…”(1). Trước khi qua đời, trong Di chúc, Người còn dặn: Đảng ta là một đảng cầm quyền, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Trước đó, Người đã giải thích người đầy tớ thật trung thành của nhân dân có nghĩa là người biết hoạt động, biết làm việc chung cho nhân dân và phải làm thật tốt. “Chính phủ Cộng hòa dân chủ là đầy tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đầy tớ. Làm việc ngày nay không phải là để thăng quan phát tài. Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ...”(2).
Trung với nước là trung với lý tưởng cách mạng, với chính mục tiêu mà Đảng đã ghi rõ trong Điều lệ chứ không nên hiểu là phải trung thành máy móc với lý luận kinh điển. Cần phải hiểu rõ tinh thần cách mạng của lý luận mácxít để kiên trì và trung thành. Thực chất lý luận chỉ là vũ khí, là phương tiện, Hồ Chí Minh đã nói rõ lý luận chỉ như cái kim chỉ phương hướng. Vậy thì phải tùy hoàn cảnh, tùy thời thế mà mài sắc lý luận. Lý luận không nhất thành bất biến, không phải là đem các pho kinh điển ra mài giũa, tụng niệm mà trung thành một cách giáo điều, hủ lậu. Các nhà sáng lập ra học thuyết mà chúng ta khuôn theo, đã từng nói rằng bản chất học thuyết của các ông là cách mạng, là phải căn cứ vào thực tiễn mà phát triển. V.I.Lênin đã dám thực hiện chính sách kinh tế mới mà trong kinh điển của C.Mác không có, Hồ Chí Minh đã không bắt chước người ta nói giai cấp đấu tranh mình cũng nói đấu tranh giai cấp, Người đã chỉ rõ phải đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó mới là lý luận cách mạng chân chính. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Người đã tổng kết kinh nghiệm cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, cách mạng Nga, cách mạng Tàu để tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc ta. Tại sao ngày nay chúng ta đi nhiều, tham quan khắp thế giới, có các phương tiện thông tin rất hiện đại mà ta vẫn loay hoay mãi, suốt 30 năm qua, vẫn chưa tìm ra được lý luận cách mạng phù hợp với thời kỳ đổi mới. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII đã nhận rõ nguyên nhân để cho hiện tình đất nước như hiện nay: “Những hạn chế, yếu kém có nguyên nhân khách quan… nhưng trực tiếp và quyết định nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan: Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất. Công tác dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất cập”(3).
Thời cuộc đã biến đổi, đất nước đang đứng trước những thách thức và thời cơ mang tính bước ngoặt. Hơn bất cứ lúc nào, Đảng ta phải có lý luận đúng để chỉ đường. Theo Hồ Chí Minh, lý luận ấy là “trí khôn” của Đảng, nếu không sẽ như người đi đêm không có đèn, không có đuốc soi đường. Đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy lý luận để tìm ra trí khôn cứu nguy dân tộc. “Đổi mới mang ý nghĩa sống còn” đã được Đại hội VI coi như một quyết sách chính trị mang tính bước ngoặt.
Khắc phục bằng được khuyết điểm đó chính là điều kiện tiên quyết mà hiện nay Đảng cần phải có để giữ vững vai trò duy nhất cầm quyền và lãnh đạo xã hội của mình.
Thứ hai, Đảng phải giữ vững bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu, con đường đi lên CNXH.
Lãnh đạo nhà nước và xã hội thực hiện mục tiêu xây dựng thành công CNXH, Đảng cầm quyền phải thấm nhuần về mục tiêu, lý tưởng, lý luận của giai cấp công nhân, đảng cầm quyền không được phép sai lầm về đường lối chính trị. Nghị quyết Đại hội XI đã chỉ rõ: phải “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào”(4).
Đảng luôn trên cơ sở thực tiễn để xây dựng, hoàn thiện cương lĩnh, đường lối, chủ trương phát triển. Khi tình hình trong nước và quốc tế có sự biến chuyển, thay đổi, Đảng phải năng động, sáng tạo để khởi xướng đổi mới toàn diện đất nước, không được bảo thủ, trì trệ, nhưng không được hấp tấp, vội vàng, không nghiêm túc nghiên cứu, tổng kết mà đã sửa đổi đường lối, chủ trương, chính sách thì sẽ dẫn đến nguy cơ chệch hướng XHCN. Vì vậy, phải thận trọng, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kết hợp tính khoa học với tình hình thực tế nhạy cảm của đất nước và của thế giới để đề ra đường lối, chủ trương, quyết sách đúng đắn, phù hợp.
Đảng lãnh đạo thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình hoạt động trong mọi lĩnh vực. Do đó, cần xây dựng đội ngũ đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH và đường lối đổi mới của Đảng; có phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao và có khả năng tổng kết, giải đáp những vấn đề thực tiễn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta; đồng thời, mỗi đảng viên phải xây dựng cho mình phương pháp và tác phong công tác, làm cho mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Thứ ba, Đảng phải không ngừng nâng cao trình độ, trí tuệ, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, hối lộ làm trong sạch Đảng.
Trình độ trí tuệ của Đảng là một trong những tiền đề cơ bản bảo đảm cho Đảng đề ra đường lối đúng đắn các giai đoạn lịch sử, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, thực hiện công cuộc đổi mới nhằm hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên CNXH trong bối cảnh mới nhiều khó khăn, thách thức. Do vậy, không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng là nhân tố hàng đầu giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đảng phải vừa trí tuệ vừa văn minh.
Muốn nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng, điều đòi hỏi đầu tiên là phải nâng cao trình độ trí tuệ của bản thân đội ngũ cán bộ, đảng viên. V.I.Lênin đã từng dạy rằng, người cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của mình bằng kho tàng tri thức của nhân loại. Trong kho tàng tri thức đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trước hết đến sự cần thiết phải học tập và kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin. Để nâng cao trình độ trí tuệ của mình, người cán bộ đảng viên còn phải “ra sức học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ”, bởi chỉ có như vậy mới có tri thức hiểu biết công việc và hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn, góp phần bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng lãnh đạo chính trị của Đảng đối với công tác chuyên môn. Tầm cao trí tuệ là cơ sở để Đảng đề ra đường lối đúng đắn, lãnh đạo toàn dân tộc xây dựng thành công CNXH. Trên cơ sở nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn căn cứ vào đặc điểm, tình hình của đất nước, khu vực và thế giới, để đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn lãnh đạo cách mạng; đồng thời, không ngừng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, khái quát, phát hiện những vấn đề mới, nhằm phát triển lý luận và bổ sung, hoàn thiện đường lối.
V.I.Lênin cũng đã khẳng định, để đảm bảo giữ vững vị thế duy nhất cầm quyền của đảng cần tiến hành thanh đảng, mà muốn thanh đảng có kết quả thì phải kiên quyết dựa vào nhân dân để tiễu trừ nạn hối lộ. Người cho rằng: “Cuối cùng, nếu còn có một hiện tượng như nạn hối lộ, nếu còn có thể hối lộ được, thì cũng không thể nói tới chính trị được. Trong trường hợp này, thậm chí cũng không thể nói đến chính trị được, vì mọi biện pháp đều sẽ lơ lửng trên không trung, sẽ hoàn toàn không mang lại kết quả gì cả. Một đạo luật chỉ có thể đưa đến kết quả xấu hơn nếu trên thực tiễn nó được đem áp dụng trong điều kiện nạn hối lộ còn được dung thứ và đang thịnh hành. Trong những điều kiện đó, không thể làm được một thứ chính trị nào hết; người ta không có điều kiện cơ bản để có thể làm chính trị được(5).
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII đã chỉ khá rõ, tham ô, hối lộ hiện nay đã biến tướng thành nhiều hình thức. Truy tìm tham ô đã khó, truy tìm hối lộ càng khó hơn.
Một sự thực nghiệt ngã là đồng tiền tham ô, hối lộ đang chi phối, đang làm đảo ngược mọi giá trị. Đúng như C.Mác đã viết: “Tiền ... biến sự tưởng tượng thành hiện thực và hiện thực thành tưởng tượng... Lúc đó, tiền cũng xuất hiện với tính cách là lực lượng có tác dụng xuyên tạc ấy chống lại cá nhân cũng như chống lại những mối liên hệ xã hội, v.v.., tức là, những mối liên hệ có tham vọng muốn là những bản chất cho nó. Tiền biến trung thành phản, yêu thành ghét, ghét thành yêu, đức hạnh thành thói xấu, thói xấu thành đức hạnh, tớ thành chủ, chủ thành tớ, ngu thành khôn, khôn thành ngu. Vì tiền, với tính cách là khái niệm đang tồn tại và đang biểu hiện của giá trị, làm lẫn lộn và trao đổi mọi sự vật, cho nên nó là sự lẫn lộn phổ biến và sự thay thế phổ biến mọi sự vật, nghĩa là thế giới lộn ngược, là sự lẫn lộn và sự thay thế tất cả những phẩm chất tự nhiên có tính người”(6).
Thứ tư, phải xây dựng, hoàn thiện phương thức lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng pháp luật, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo tính hợp hiến trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ được xác lập trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của đất nước mà còn từng bước được ghi nhận trong các Hiến pháp Việt Nam với tư cách là đạo luật cơ bản nhất của Nhà nước và xã hội, thể hiện ý chí và nguyện vọng chung nhất của đại đa số nhân dân Việt Nam ở trong và ngoài nước. Cụ thể là: trong Lời nói đầu Hiến pháp năm 1959, trong Điều 4 Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013. Việc hiến định trong Hiến pháp về vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã đảm bảo địa vị pháp lý cho sự tồn tại và thực hiện thẩm quyền của Đảng trong xã hội, đảm bảo tính chính danh, tính chính đáng của Đảng trong trọng trách lãnh đạo và cầm quyền.
Trong thực tế, dù Hiến pháp có quy định hay không quy định thì Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã, đang và sẽ tiếp tục lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam. Đây là một nhu cầu khách quan, là sự thừa nhận từ phía Nhà nước và xã hội Việt Nam đối với sự cầm quyền, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó cũng là trách nhiệm mà nhân dân giao phó cho Đảng và đồng thời là sự cam kết của Đảng đối với nhân dân, đất nước. Quy định trên của Hiến pháp năm 2013 vừa bảo đảm được tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tránh được hiện tượng lạm quyền, chuyên quyền của các tổ chức đảng và các cá nhân đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là trong điều kiện chỉ tồn tại một đảng duy nhất trong xã hội.
Về phía Đảng Cộng sản Việt Nam, từ thực tiễn xây dựng Ðảng trong những năm đổi mới, Đảng rút ra bài học kinh nghiệm: “Phải xây dựng hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của Ðảng ở các ngành, các cấp. Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”(7). Đặc biệt, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội X thông qua lần đầu tiên xác định Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật là một trong các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Đây là sự đánh dấu bước tiến mới không chỉ trong nhận thức mà còn trong hoạt động thực tiễn của Đảng phù hợp với yêu cầu khách quan của thời đại và của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
Như vậy, trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tính pháp quyền hay tinh thần thượng tôn pháp luật là một trong những yêu cầu cơ bản đối với Đảng. Những yêu cầu cụ thể bao gồm: Một là, Đảng phải tiếp tục nâng cao tính chính đáng trong việc cầm quyền cả ở tính công ích, tính hợp pháp và quan trọng nhất là tính hiệu quả trong sự cầm quyền của Đảng. Hai là, Đảng phải đẩy mạnh thực hành dân chủ một cách rộng rãi, không ngừng phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Ba là, Đảng phải thực hiện sự lãnh đạo, cầm quyền trên cơ sở thượng tôn pháp luật. Bốn là, phải làm rõ mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước đồng thời cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ./.
__________________________________
(1), (5) V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, M., T.44, tr 134 - 135, 128.
(2) Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.8, 1996, tr.34.
(3) Hồ Chí Minh (1996), Sđd, T.5, tr. 60.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng trung ương Đảng, Hà Nội.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, tr. 25.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, tr.278.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông tháng 2.2021
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Bài viết nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội đối với hoạt động báo chí hiện nay, tập trung vào sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, phân phối tin tức và cấu trúc nội dung báo chí. Truyền thông xã hội đã trở thành một nguồn tin phong phú, đa chiều và nhanh chóng, làm thay đổi đáng kể cách thức thu thập và truyền tải thông tin. Tuy nhiên, tính xác thực của nguồn tin mạng xã hội vẫn là một thách thức, đòi hỏi báo chí phải chú trọng vào việc kiểm chứng và phản hồi thông tin một cách chính xác. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất báo chí cần phát triển nội dung chất lượng cao, tăng cường kỹ năng công nghệ số của phóng viên và xây dựng các nền tảng số riêng để giảm sự phụ thuộc vào truyền thông xã hội, đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy trong kỷ nguyên số.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận