Công tác đối ngoại góp phần bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới
Một số vấn đề chung về bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại
Bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng là quan điểm xuyên suốt và được đặt ở vị trí hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng. Đại hội VII của Đảng (năm 1991) xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(1). Ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”(2). Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) tiếp tục khẳng định: “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(3).
Tư duy đối ngoại Việt Nam là luôn nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn giữa ổn định, đổi mới và phát triển. Để đổi mới và phát triển cần dựa trên nền tảng vững chắc. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định: “Đổi mới tư duy về đối ngoại trước hết là sự kế thừa và phát triển truyền thống ngoại giao của dân tộc, vận dụng sáng tạo, linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với sự phát triển nhận thức về đối ngoại qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng và gắn với thực tiễn trong nước và bối cảnh quốc tế của từng thời kỳ, chọn lọc và tiếp thu tinh hoa của nhân loại. Đổi mới tư duy đúng và kịp thời sẽ giúp tạo dựng và nắm bắt cơ hội, đổi mới tư duy chậm thì sẽ dẫn đến trì trệ, thậm chí biến thành thách thức”(4).
Từ đó, nhiệm vụ bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại có thể hiểu là: 1- Vận dụng sáng tạo những giá trị thời đại trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại để những giá trị đó ngày càng thấm sâu, đóng vai trò chủ đạo trong nhận thức của toàn Đảng, toàn dân và trong quan hệ với bạn bè quốc tế; 2- Đề xuất, luận chứng các giải pháp đối ngoại nhằm bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng, những thành tựu phát triển của đất nước; 3- Chủ động, kiên quyết đấu tranh dư luận và trong các hoạt động đối ngoại cụ thể nhằm phản bác, vô hiệu hóa những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động; 4- Phát huy vai trò tiên phong trong dự báo, xác định xu hướng, đưa nền tảng tư tưởng của Đảng vào thực tiễn.
Mối quan hệ giữa đối ngoại với bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng cho tư duy đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin cung cấp thế giới quan và phương pháp luận khoa học giúp Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn ra thế giới, luận giải tình hình, dự báo xu thế, từ đó đưa ra các quyết sách đối ngoại sáng suốt. Đây là sự kế thừa và phát triển những giá trị tiến bộ của tư tưởng nhân loại, được vận dụng và phát triển phù hợp với thực tiễn lịch sử xã hội. Tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng, “cẩm nang” cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, mà đến nay vẫn tiếp tục là “kim chỉ nam” cho đường lối đối ngoại Việt Nam.
Thứ hai, là người khai sinh ra nền ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một hệ thống tư duy đối ngoại, quan điểm về các vấn đề quốc tế, chiến lược và sách lược cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Bắt nguồn từ triết lý và truyền thống ngoại giao của ông cha ta, Người đã kế thừa và phát triển những giá trị đó lên tầm cao mới. Tư tưởng của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng cho sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Đối ngoại góp phần tăng cường, bồi đắp, phát triển và đưa nền tảng tư tưởng của Đảng vào thực tiễn
Thứ nhất, mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với các nước, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định “từ sớm, từ xa”, góp phần quan trọng bảo vệ độc lập, chủ quyền và an ninh của đất nước, đồng thời tạo sự hiểu biết và ủng hộ của bạn bè quốc tế, trao đổi lý luận phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và huy động hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, đẩy mạnh quảng bá sâu rộng công cuộc đổi mới, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, tích cực, đóng góp trách nhiệm vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế, từ đó nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của đất nước, khẳng định nền tảng tư tưởng đúng đắn và vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”
Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay cần kết hợp nhuần nhuyễn giữa “bảo vệ” và “đấu tranh”, giữa “xây” và “chống”. Gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược và lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và cấp bách. Với nhiệm vụ “bảo vệ” kết hợp với “đấu tranh”, cần dựa trên quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “thêm bạn, bớt thù”(5), lấy “tâm công” làm nền tảng, lấy giáo dục, thuyết phục, tuyên truyền làm trọng, lấy thực tiễn sinh động để chứng minh đường lối đúng đắn, tiến tới chuyển hóa được “đối tượng” thành “đối tác”, qua đó giữ vững đường lối đối ngoại. Cùng với đó, cần chủ động phòng ngừa, kiên quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng đối với những nội dung, chủ thể “chống” trong những điều kiện cần thiết.
Chủ thể cần bảo vệ (xây) là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, quan điểm, đường lối đối nội và đường lối đối ngoại của Đảng và cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước. Bên cạnh đó, cần bảo vệ nhân dân, bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, sự nghiệp đổi mới và quan hệ đối ngoại của đất nước; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại bản lĩnh, kiên định, trình độ, tận tâm...
Với nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đối ngoại tiếp tục góp phần bồi đắp, phát triển, đưa nền tảng tư tưởng của Đảng đi vào thực tiễn. Bằng sự vận dụng sáng tạo và không ngừng đổi mới tư duy, công tác lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phát huy giá trị trong thời đại mới, ứng phó kịp thời trước những biến động nhanh chóng của thế giới.
Đối tượng phải đấu tranh (chống) là những quan điểm sai trái, thù địch, lợi dụng dư luận để xuyên tạc, kích động chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước; bôi nhọ uy tín, danh dự của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Hơn nữa, cần nhanh chóng dùng sự thật chân thực và thực tiễn cuộc sống của đất nước trên mọi phương diện để phản bác những thông tin sai lệch phủ nhận những thành tựu phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước, đấu tranh chống những hành động nguy hại đối với môi trường hòa bình, ổn định, cố tình hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế...
Trước tình hình các thế lực thù địch, phản động có những hoạt động chống phá ngày càng tinh vi và diễn ra bằng nhiều hình thức, với nhiều thành phần, không chỉ là chủ nghĩa đế quốc, mà còn là một số thành phần theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại không chỉ diễn ra bên ngoài, mà cả ở bên trong. Bảo vệ Đảng trước âm mưu “diễn biến hòa bình”, đồng thời bảo vệ lý tưởng của Đảng trước sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Kiên quyết bác bỏ các luận điệu sai trái, thù địch hòng xuyên tạc, bôi nhọ, công kích đường lối đối ngoại của Đảng, hòng làm xói mòn niềm tin của nhân dân, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định của đất nước
Một là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng tư duy và đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam là lạc hậu, lỗi thời, lý thuyết và phi thực tế.
Có thể khẳng định, tư duy và đường lối đối ngoại của Đảng luôn vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc mà làm”(6), nghĩa là phải luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên hàng đầu. Lời căn dặn của Người đã trở thành nguyên tắc nhất quán của đường lối đối ngoại Việt Nam trong suốt những năm tháng cách mạng và ngày nay.
Trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng đổi mới tư duy đối ngoại, không ngừng bám sát thực tế. Đó là quá trình phát triển từng bước vững chắc, luôn được kiểm nghiệm trong thực tiễn, có sự kế thừa và tiếp nối cho phù hợp với bối cảnh đất nước và xu thế bên ngoài(7). Tư duy đối ngoại của Đảng luôn kế thừa truyền thống lịch sử và có tính biện chứng, khoa học, thực tiễn.
Nhờ sự kiên định, vận dụng sáng tạo nền tảng tư tưởng đối ngoại của Đảng, cùng với quá trình đổi mới, Việt Nam đã hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng vào khu vực và toàn cầu, khơi thông, mở rộng và làm sâu sắc hơn các mối quan hệ đối ngoại. Thông qua đó, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi trong huy động các nguồn lực bên ngoài phục vụ quá trình phát triển, phát huy vai trò nòng cốt của đối ngoại và từng bước nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Những kết quả đạt được trong quá trình hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn chung của đất nước.
Hai là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, cổ xúy cho rằng, Việt Nam sẽ phải liên minh với một nước lớn chống nước khác.
Có thể thấy, trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc từ trước đến nay, nhân dân Việt Nam luôn kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, nêu cao ý chí độc lập, tự chủ. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ thể hiện qua chính sách quốc phòng “bốn không”(8) được Đảng, Nhà nước Việt Nam nhất quán thực hiện và khẳng định tính đúng đắn trong từng giai đoạn của đất nước.
Xuyên suốt lịch sử, đối ngoại Việt Nam luôn phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc, vì lợi ích chung của cả nhân loại, không gây bất lợi cho đối tác bên ngoài và càng không vì một đối tác bên ngoài mà làm ảnh hưởng tới lợi ích chính đáng của đối tác khác.
Có thể khẳng định, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu thế chung của thế giới. Ưu tiên hàng đầu là bảo đảm cao nhất lợi ích của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả.
Ba là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng, Việt Nam thực hiện “ngoại giao đu dây”, “không dám thể hiện lập trường”.
Đối ngoại của Việt Nam luôn nhất quán, đó là thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Việt Nam không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải. Điều này cũng thể hiện tính xuyên suốt, nhất quán trong đường lối đối ngoại của Việt Nam. Đơn cử như, đối với cuộc xung đột Nga - U-crai-na, quan điểm nhất quán của Việt Nam là đứng về công lý và đề xuất biện pháp đối thoại, ngoại giao để giải quyết vấn đề.
Quan điểm này của Việt Nam cũng phù hợp với tinh thần thông điệp của Đại hội đồng Liên hợp quốc: “Hãy mở rộng cánh cửa đối thoại và ngoại giao ngay từ bây giờ”(9). Đối với Việt Nam, cả Nga và U-crai-na đều là đối tác quan trọng. Việt Nam kêu gọi hai bên giảm leo thang căng thẳng, nối lại đối thoại và tìm kiếm giải pháp lâu dài trên cơ sở lợi ích và quan ngại của các bên, tôn trọng luật pháp quốc tế, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, an toàn của cư dân sinh sống, trong đó có cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Đây cũng là cách mà nhiều quốc gia trên thế giới đã lựa chọn(10).
Bốn là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc tìm cách lôi kéo dư luận hòng can thiệp các vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, âm mưu làm xói mòn lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; gây rối, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội, phá hoại môi trường hòa bình ổn định để phát triển đất nước.
Có thể thấy, dân chủ là bản chất của chế độ Việt Nam, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước, vì vậy trong mỗi tiến trình phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân(11).
Trên nền tảng đó, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong bảo đảm quyền con người, trở thành một trong những nước chủ động, tích cực tham gia các điều ước quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 điều ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đó là minh chứng sinh động về tính đúng đắn của chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Năm là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc tập trung bôi nhọ, công kích lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cán bộ ngoại giao và cơ quan ngoại giao Việt Nam.
Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập, hòa bình, xây dựng và phát triển đất nước, những dấu mốc thắng lợi và thành tựu to lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam chính là sự khẳng định thuyết phục nhất, chân thực nhất về công lao và cống hiến to lớn của các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng toàn thể cán bộ đối ngoại. Trên thực tế, nhiều thủ đoạn bôi nhọ, công kích cán bộ vẫn còn hiện hữu, nhất là đối với lãnh đạo Đảng, Nhà nước, hòng gây chia rẽ nội bộ, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Việc bịa đặt, bôi nhọ, tạo dựng thông tin sai lệch về con người, là việc làm xấu xa, trái với đạo đức, truyền thống quý báu của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà ngoại giao kiệt xuất, người sáng lập nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, đã trực tiếp dẫn dắt, chỉ đạo những thế hệ cán bộ ngoại giao đầu tiên sau cách mạng. Những di sản to lớn về tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao của Người đến nay vẫn tiếp tục soi sáng cho ngành ngoại giao. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ ngành ngoại giao luôn phấn đấu trở thành những cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm vững chuyên môn, thông thạo kỹ năng và năng động thích ứng với tình hình(12), hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao phó.
Các nhà ngoại giao Việt Nam qua từng thời kỳ đã khẳng định trình độ, bản lĩnh khi đại diện cho đất nước giữ những trọng trách quan trọng tại các tổ chức, diễn đàn quốc tế lớn ở khu vực và toàn cầu(13). Hiện nay, Việt Nam đang tự tin bước trên con đường hội nhập quốc tế với tâm thế mới, vận hội mới. Điều đó tiếp tục là một trong những minh chứng rõ nét khẳng định uy tín, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước, các nhà lãnh đạo và cán bộ làm công tác đối ngoại, góp phần vào cuộc đấu tranh chung trên mặt trận tư tưởng hiện nay.
Phương hướng phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trên lĩnh vực đối ngoại
Trong suốt chặng đường gần 40 năm đổi mới, đối ngoại đã phát huy mạnh mẽ vai trò tiên phong, góp phần bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong một thế giới đầy biến động. Trong thời gian tới, để tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, đối ngoại cần ưu tiên một số nội dung chính sau:
Thứ nhất, tập trung tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, vận dụng và phát triển những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại.
Quá trình này sẽ góp phần minh chứng tính đúng đắn, khoa học, sáng tạo trong đường lối đối ngoại của Đảng, phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc, đặt con người vào vị trí trung tâm, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, việc tổng kết thực tiễn đối ngoại qua các thời kỳ, phân tích, đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân sẽ giúp rút ra những bài học quý giá để vận dụng vào công tác đối ngoại trong giai đoạn mới. Với nhận thức đó, đối ngoại cần phát huy vai trò tiên phong trong bảo vệ môi trường hòa bình, an ninh “từ sớm, từ xa”, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển và nâng cao vị thế của đất nước.
Quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa trên cơ sở kế thừa và phát huy tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Chú trọng xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh tình hình mới, kế thừa những giá trị cốt lõi về đối ngoại của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xử lý hài hòa, khéo léo các mối quan hệ, nhất là với các nước láng giềng và nước lớn, luôn “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”, đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên hàng đầu và tôn trọng luật pháp quốc tế.
Thứ hai, đẩy mạnh nghiên cứu, dự báo, bám sát tình hình để kịp thời đổi mới tư duy, chủ động ứng phó và có giải pháp thích hợp trong công tác đối ngoại.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động, nghiên cứu khoa học và nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực đối ngoại đã có những bước tiến đáng kể, dành được sự quan tâm lớn của ngành ngoại giao(14). Công tác nghiên cứu, dự báo sẽ góp phần đắc lực vào quá trình phát triển đất nước, đồng thời giúp Việt Nam tránh bị động trong đối phó, tạo cớ cho các thế lực thù địch, phản động lợi dụng.
Đối ngoại cần tiếp tục chủ động bám sát tình hình quốc tế và trong nước, nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, xây dựng kịch bản, tranh thủ các mạng lưới đối tác, tư vấn quốc tế, đối thoại chính sách kinh tế cho Việt Nam. Mặt khác, cần xây dựng cơ chế phối hợp nhanh chóng, hiệu quả trong xử lý các vấn đề quan trọng, đột xuất, những vấn đề mang tính quốc tế ở cả trong và ngoài nước, góp phần chủ động hơn nữa trong nắm bắt dư luận, sớm phát hiện các hoạt động chống phá, đấu tranh phản bác thông tin sai lệch, nhất là trong các vấn đề chủ quyền lãnh thổ, quan hệ nước lớn, xung đột, dân chủ, nhân quyền,... để có hình thức đấu tranh phù hợp, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, giữa “xây” và “chống”, qua đó giữ vững môi trường hòa bình, an ninh Tổ quốc.
Thứ ba, chủ động, sáng tạo trong giải thích, thông tin, truyền thông đối ngoại về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để công chúng thấu hiểu, tự giác nâng cao nhận thức, giác ngộ trước các mưu đồ, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
Công tác thông tin đối ngoại cần đẩy mạnh quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam để thế giới biết đến và thêm yêu mến Việt Nam. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngày càng phát triển, công tác thông tin đối ngoại đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng mới, trong đó có sự chỉ đạo, trao đổi thông tin kịp thời giữa các cơ quan thông tấn, báo chí, các cơ quan đại diện trong và ngoài nước nhằm nắm bắt thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng xã hội,... nhất là nêu cao sự cảnh giác, nhanh nhạy và sắc bén trong nhận diện, đấu tranh, phản bác các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động.
Đối ngoại cần chủ động và tích cực tham gia cuộc đấu tranh dư luận bằng các biện pháp phù hợp, kể cả trên mặt trận tư tưởng văn hóa đến các phương tiện truyền thông đối ngoại, đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý thông tin trên nền tảng số, mạng xã hội; chủ động cung cấp thông tin nhằm định hướng dư luận, đẩy lùi thông tin, văn hóa xấu, độc, nâng cao ý thức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
Tích cực đổi mới phương thức, nội dung và tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền; coi trọng nội dung giáo dục nền tảng tư tưởng của Đảng, văn hóa, lịch sử, truyền thống dân tộc, bảo đảm thực hiện tốt, hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đấu tranh dư luận, cần chú trọng kết hợp các dạng thức truyền thông trên cơ sở phân cấp rõ ràng giữa các đơn vị triển khai nhằm tạo mặt trận dư luận có trình tự rõ ràng, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, không tạo khe hở để lực lượng cực đoan bên ngoài lợi dụng, kích động dư luận.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại bản lĩnh chính trị, “vừa hồng, vừa chuyên”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(15); “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(16). Những năm tới là thời gian chuyển giao thế hệ những cán bộ làm công tác đối ngoại(17), do đó vấn đề kế thừa và phát triển đội ngũ cán bộ đối ngoại bản lĩnh, vừa hồng, vừa chuyên, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng là một yêu cầu cấp thiết.
Trước hết, cần đẩy mạnh công tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại về bản lĩnh, phẩm chất. Đây là khâu quan trọng nhất, bởi khi đã thấm nhuần đường lối, chủ trương của Đảng, bản sắc ngoại giao Việt Nam, cán bộ đối ngoại khi tham gia vào đời sống quốc tế mới đủ bản lĩnh, năng lực để kiến tạo điểm tương đồng, giảm thiểu điểm khác biệt, tiếp tục đấu tranh, bảo vệ và đẩy mạnh hợp tác quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc(18).
Đặc biệt, tổ chức học tập, quán triệt thực hiện các văn bản, nghị quyết của Đảng về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Ngoài ra, chú trọng nghiên cứu tư tưởng, trường phái ngoại giao Việt Nam, qua đó vận dụng, phát huy các giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống ngoại giao Việt Nam. Xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực toàn diện, bảo đảm cả về chất lượng và số lượng. Ưu tiên đề cử, giới thiệu cán bộ có tiềm năng, triển vọng tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước. Chú trọng đào tạo tại chỗ, gắn đào tạo, bồi dưỡng với thi đua - khen thưởng, phát huy vai trò người đứng đầu. Bên cạnh đó, quán triệt thực hành rộng rãi, duy trì kỷ cương phép nước, chống quan liêu, lãng phí; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao tiềm lực, vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
Đại hội XIII của Đảng đã mang đến cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta xung lực mới để vượt qua mọi thử thách, đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Bước vào giai đoạn mới, bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại trở thành một nhiệm vụ then chốt. Mọi cấp, mọi ngành, mọi cán bộ, đảng viên, người dân trong nước, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cần thấm nhuần và nâng cao hơn nữa ý thức, trách nhiệm của mình trong tham gia công tác đối ngoại.
Nhằm giữ vững và phát huy di sản quý báu, to lớn của các thế hệ đi trước, ngoại giao Việt Nam sẽ tiếp tục vững bước tiến lên, và luôn đặt trên vai trọng trách thiêng liêng nhất là bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
_________________________________________________________
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 127
(2) Đảng đã khẳng định và cụ thể hóa: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Xem: Nguyễn Ngọc Cơ: “Mỗi đảng viên phải có trách nhiệm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 12-11-2021, https://dangcongsan.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/moi-dang-vien-phai-co-trach-nhiem-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang-596992.html
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 33
(4) Nguyễn Phú Trọng: “Kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, quyết tâm xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 21-11-2023, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ke-thua-phat-huy-truyen-thong-dan-toc-tu-tuong-ngoai-giao-ho-chi-minh-quyet-tam-xay-dung-va-phat-trien-nen-doi-ngoai-ngoai-giao-toan-dien-hien-dai-man
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 215
(6) Nguyễn Dy Niên: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 112
(7) Đổi mới tư duy đối ngoại được thể hiện rõ và đặc sắc nhất trong thời kỳ đổi mới, với ba giai đoạn: 1- Giai đoạn phá thế bao vây, cấm vận (1986 - 1995); 2- Giai đoạn mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế (1996 - 2010); 3- Giai đoạn đưa quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện (từ năm 2011 đến nay)
(8) 1- Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; 2- Không tham gia liên minh quân sự; 3- Không liên kết với nước này để chống nước kia; 4- Không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế
(9) António Guterres: “Secretary-General’s press remarks following vote of General Assembly on Ukraine” (Tạm dịch: Phát biểu với báo chí của Tổng Thư ký Liên hợp quốc sau cuộc bỏ phiếu của Đại hội đồng Liên hợp quốc về U-crai-na), United Nations, ngày 2-3-2022, https://www.un.org/sg/en/content/sg/speeches/2022-03-02/remarks-following-vote-of-general-assembly-ukraine
(10) Nhiều quốc gia bỏ phiếu trắng khi thông qua hai nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Xem: Mai Chi: “Công lý, đối thoại và ngoại giao”, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, ngày 8-4-2022, https://tuyengiao.vn/cong-ly-doi-thoai-va-ngoai-giao-143037
(11) Vũ Văn Hiền: Một số luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr. 194
(12) Phạm Quang Hiệu: “Xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại toàn diện, hiện đại, ngang tầm nhiệm vụ”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 22-4-2021, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/821754/xay-dung-doi-ngu-can-bo-doi-ngoai-toan-dien%2C-hien-dai%2C-ngang-tam-nhiem-vu.aspx
(13) Tổng Thư ký ASEAN, Phó Tổng Thư ký ASEAN, Thành viên Ủy ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc (ILC)...
(14) Thể hiện qua việc đánh giá tình hình, đề ra đối sách, tham mưu điều hành kinh tế, tranh thủ tư vấn nước ngoài, nhìn nhận những xu thế mới trên thế giới để phục vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các cơ quan hữu quan trong đưa ra những quyết sách thích hợp. Xem: Bộ Ngoại giao: Ngoại giao Việt Nam 2000 - 2015, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 186
(15), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 309, 280
(17) Chuyển giao từ thế hệ cán bộ sinh ra trong lúc đất nước còn chiến tranh, học tập ở các nước xã hội chủ nghĩa sang thế hệ cán bộ sinh ra, lớn lên trong thời bình, được đào tạo từ trong nước và ngoài nước, sẽ đảm đương những nhiệm vụ quan trọng trên mặt trận đối ngoại
(18) Nguyễn Minh Vũ: Phát triển đội ngũ cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng (phần cuối), Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương, ngày 6-11-2021, http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/phat-trien-doi-ngu-can-bo-du-kha-nang-lam-viec-trong-moi-truong-quoc-te--dap-ung-yeu-cau-hoi-nhap-quoc-te-toan-dien-va-sau-rong-phan-cuoi.html
Nguồn: Bài đăng trên báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 30/05/2024
Bài liên quan
- Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
- Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
- Nhận diện và xử lý những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong sách tôn giáo
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả là một biến thể nguy hại của chủ nghĩa cá nhân, trái ngược với những yêu cầu về phẩm chất đích thực và đạo đức cách mạng. Vì vậy, ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả là loại bỏ những thói hư tật xấu đang ngấm ngầm làm tha hóa cán bộ, đảng viên. Chống uy tín giả cũng là chống chủ nghĩa cá nhân, củng cố uy tín đích thực của người cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả nảy sinh, xâm nhập, lây lan trong đời sống chính trị, xã hội do nhiều nguyên nhân, trong đó, yếu tố chủ quan của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên là nguyên nhân trực tiếp, phổ biến.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Một trong những nguy cơ ngấm ngầm tạo ra sự ghen ghét, đố kỵ, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, làm suy yếu tổ chức, suy yếu tập thể là uy tín giả. Nghiêm trọng hơn, nó còn thúc đẩy sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân rất nguy hại. Suy rộng ra, uy tín giả hủy hoại nghiêm trọng thanh danh của Đảng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta nếu không được nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn.
Bình luận